Pages

Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2008

CHỮA VIÊM GAN SIÊU VI : KHỔ DO MÙ MỜ THÔNG TIN

Chữa viêm gan siêu vi: Khổ do mù mờ thông tin
Diễn tiến của bệnh viêm gan siêu vi C.
Nghe nói đến viêm gan siêu vi, nhiều người không khỏi hoảng sợ vì liên tưởng đến những biến chứng của nó như xơ gan, ung thư gan. Do đó, khi biết mình nhiễm vi rút viêm gan, người ta thường quyết liệt chữa trị.
Tuy nhiên, không phải bệnh nhân nào cũng được thông tin đầy đủ, chính xác về chi phí, lợi ích, tác dụng phụ… trước khi bắt đầu một liệu trình tốn kém và phức tạp

Năm 2002, chị V.T.N., 42 tuổi, ngụ tại Q.3, TP.HCM, đi thử máu và bác sĩ cho biết chị bị viêm gan siêu vi C. Mang kết quả đi khắp nơi hỏi thăm, nhiều bác sĩ lại nói chưa có gì rõ ràng. Nhưng khi mang đến một cơ sở điều trị có tiếng, chị N. lại được bác sĩ đề nghị chữa trọn gói 6 tháng với chi phí… 10.000 USD và còn nói thêm nếu không chữa thì nguy cơ ung thư rất cao. Không kham nổi số tiền quá lớn, chị N. đành sống chung với bệnh, nhưng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ.

Không phải giai đoạn nào cũng điều trị

Cách đây ba tháng, trên blog của chị, người ta có thể đọc được những dòng tâm sự: “Nhiều năm trời, tôi như mang trên người gông cùm, luôn hoang mang, lo lắng về những gì bác sĩ nói”. Tháng qua, tình cờ quen một bác sĩ nội khoa, chị N. được đề nghị làm xét nghiệm định tính vi rút C trong máu. Kết quả từ Pháp (với độ nhạy rất cao) gởi về cho thấy kết quả âm tính, không có vi rút trong máu. Thế là sau 6 năm, chị đã được giải thoát khỏi “gông cùm” bệnh tật.

Cố tình thông tin không đầy đủ hoặc cường điệu nguy cơ cho bệnh nhân đang là một thực trạng của giới điều trị hiện nay ở nước ta, đặc biệt trong lĩnh vực điều trị viêm gan siêu vi. Không phủ nhận viêm gan siêu vi là một vấn đề sức khoẻ cộng đồng hiện nay ở Việt Nam khi một số khảo sát cho thấy tỷ lệ người mắc viêm gan siêu vi B là 10 - 20% và siêu vi C 1,8 - 4%. Và cũng không phủ nhận nếu không điều trị, bệnh chuyển thành mạn tính, từ đó có thể biến chứng sang xơ gan hoặc ung thư gan sau một thời gian dài.

Tuy nhiên, theo khuyến cáo của các hiệp hội bệnh gan Hoa Kỳ, Âu châu, Đông Nam Á, chỉ một thiểu số bệnh nhân viêm gan siêu vi B có đáp ứng với thuốc đặc trị diệt siêu vi. Cụ thể, chỉ 5 - 10% dạng viêm gan siêu vi B mạn là có đáp ứng với thuốc đặc trị, 90% còn lại vi rút ở giai đoạn không hoạt động, có điều trị cũng vô ích vì mục tiêu điều trị cũng chỉ nhắm đến việc đưa bệnh đến giai đoạn không hoạt động là đã quá tốt.

Trong khi đó, đối với viêm gan siêu vi C, kết quả điều trị thường tốt và có nhiều lợi ích rõ rệt hơn so với điều trị viêm gan siêu vi B. Tuy nhiên, vì thuốc đắt tiền, nhiều tác dụng phụ và tỷ lệ lành bệnh không phải lúc nào cũng chắc chắn 100% nên có thể tạm trì hoãn điều trị nếu xét nghiệm cho thấy gan chưa bị xơ hoá nghiêm trọng (xác định bằng sinh thiết gan), bệnh nhân có những yếu tố tiên lượng đáp ứng không thật tối ưu (lớn tuổi, genotype 1, mập phì, có nhiều bệnh lý khác đi kèm…). Tuy nhiên, việc trì hoãn điều trị này vẫn phải được theo dõi sát sao để điều trị ngay bằng thuốc đặc trị một khi gan có diễn tiến xấu.

Tiến triển thật sự của viêm gan siêu vi

Theo TS.BS Đinh Dạ Lý Hương, chuyên khoa gan mật, đa số bệnh nhân nhiễm siêu vi C không thể tự loại trừ mầm bệnh khỏi cơ thể và trở thành người mang siêu vi C mạn tính. Trong đó, 25% bệnh nhân có men gan bình thường, chậm tiến triển sang viêm gan mạn và gan ít bị hư hại, được gọi là “người mang siêu vi C mạn không triệu chứng”. Số bệnh nhân còn lại chuyển thành viêm gan C mạn tính, và sau 10 - 20 năm, ít nhất 20% trong số họ sẽ bị xơ gan. Xơ gan sẽ sớm hơn nếu bệnh nhân uống rượu nhiều hoặc gan bị hư hại thêm do thuốc hoặc nhiễm thêm các siêu vi viêm gan khác như siêu vi B, D hay HIV. Còn đối với người nhiễm siêu vi B, chỉ có khoảng 10% số họ trở thành người mang siêu vi mạn. Khoảng 20% ca viêm gan B mạn tiến triển sang xơ gan và mỗi năm có 2,5% bệnh nhân này có nguy cơ bị ung thư gan.Khánh kiệt vì điều trị

Năm 2006, sau một đợt sốt, anh T.B.T., ngụ tại Bình Thạnh, TP.HCM xét nghiệm máu và phát hiện bị viêm gan siêu vi C mạn tính. Đến một bệnh viện chuyên khoa, anh được bác sĩ tư vấn: “Anh có tiền thế nào, tôi chữa anh thế đó(!?)”. Chọn một loại thuốc vừa túi tiền chữa trị, sau 6 tháng, kết quả thật ấn tượng với anh T. khi xét nghiệm vi rút trong máu từ 1,3 triệu con/đơn vị còn 100 ngàn con/đơn vị. Nhưng sau 12 tháng, xét nghiệm lại cho thấy vi rút bùng phát như cũ, chứng tỏ điều trị thất bại. Lẽ ra, nguy cơ thất bại này phải được đánh giá trước và trong khi điều trị để thông báo cho bệnh nhân, tránh tốn kém không cần thiết.

Trường hợp của anh C. tai hại hơn nhiều. Bị viêm gan siêu vi B mạn tính, anh được một bác sĩ gần nhà “tư vấn” chữa một loại thuốc đắt tiền, chi phí 1.000 USD/tháng, với cam đoan sẽ hết bệnh sau 6 tháng. Về nhà gom hết tiền bạc chỉ được 4.000 USD, anh quay lại bác sĩ, vị này cũng nhận chữa. Sau 4 tháng điều trị, khi ngưng thuốc, xét nghiệm lại anh C. thấy bệnh mình… vẫn như cũ.

Một bác sĩ lâu năm trong ngành gan mật tiết lộ, điều trị viêm gan siêu vi thường phức tạp và tốn kém nên phải cân nhắc thật kỹ. Tuy nhiên, do thiếu kiến thức hoặc muốn kiếm lợi, không ít bác sĩ đã chữa sai, vừa thiệt hại kinh tế cho bệnh nhân và còn có thể tạo ra tình trạng kháng thuốc.

TS. Trần Tịnh Hiền, Phó giám đốc bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới TP.HCM, cho biết: Cơ sở này tiếp nhận không ít trường hợp bệnh nhân bán nhà bán cửa để chữa viêm gan siêu vi ở phòng mạch tư. Khi hết tiền, bệnh nhân tìm đến cơ sở y tế công lập mới biết bệnh của mình thực tế không cần uống thuốc mà chỉ cần xét nghiệm máu đều đặn để theo dõi diễn tiến bệnh.

Trong thực tế, điều trị viêm gan siêu vi đang là một dịch vụ “hái ra tiền” cho không ít thầy thuốc. Trường hợp anh T. kể trên, sau một năm điều trị thất bại, anh đã đến khám một bác sĩ khác. Ở đây, hàng tuần anh được đề nghị chích một loại thuốc có giá khoảng 1.000 USD/tháng. Tuy nhiên, do có người thân làm ở công ty dược, anh mua thuốc chỉ với 900 USD. Như thế bác sĩ đã hưởng lợi ít nhất 10% từ việc bán thuốc đặc trị, chưa kể lợi nhuận từ việc kê toa hàng đống thuốc “mát gan”, “bổ gan”, “hạ men gan”… “vô thưởng vô phạt” cho bệnh nhân, nhưng lại… “có thưởng” cho bác sĩ.


Theo Phan Sơn báo Sài Gòn tiếp thị

Thứ Ba, 11 tháng 11, 2008

VIÊM GAN VI RÚT B MẠN TÍNH

Giới thiệu
Có khoảng 400 triệu người trên thế giới mang vi rút viêm gan B mạn tính. Việt nam là một trong những vùng có tỉ lệ lưu hành cao của tình trạng này. Hậu quả lâu dài của tình trạng nhiễm vi rút B mạn tính này là diễn tiến đến các bệnh gan giai đoạn cuối đe dọa tới tính mạng bệnh nhân như Xơ gan, Ung thư gan…


Diễn tiến tự nhiên của nhiễm vi rút B


Diễn tiến tự nhiên của nhiễm vi rút viêm gan B có thể chia 4 giai đoạn :
1-Giai đoạn dung nạp miễn dịch: Giai đoạn này có HBeAg (+), lượng vi rút trong máu cao ( > 20000 IU/mL [ khoảng 105
copies/mL ] ), men gan(ALT) bình thường, có nghĩa là men gan không tăng. Giai đoạn này thường hay gặp ở những người bị nhiễm lúc sinh hay tuổi nhỏ, còn ngược lại ít xảy ra ở những người bị nhiễm ở tuổi thanh niên hay trưởng thành.
2-Giai đoạn thanh thải miễn dịch: Giai đoạn này rất thay đổi , lượng vi rút trong máu vẫn cao , men gan(ALT) tăng kéo dài, hoặc lúc tăng lúc giảm, và có hình ảnh viêm mạn tính khi sinh thiết gan. Mất HBeAg và anti-HBe(+) (chuyển đổi huyết thanh HBeAg) xuất hiện tự nhiên trong 50%-70% trường hợp bệnh nhân sau 5-10 năm, kết quả là chuyển qua tình trạng mang HBsAg không hoạt động.
3-Giai đoạn mang HBsAg: Giai đoạn này đặc trưng bởi lượng vi rút < 2000 IU/mL (khoảng 104
copies/mL) hoặc không phát hiện được, men gan(ALT) bình thường.
4-Giai đoạn tái hoạt động: Tuy nhiên ở một số bệnh nhân dưới áp lực của miễn dịch trong giai đoạn chuyển đổi huyết thanh HBeAg hoặc trong giai đoạn mang HBsAg không hoạt động phát triển đột biến của vi rút ( precore hoặc core promoter ) không sản xuất được HBeAg nhưng vi rút vẫn nhân đôi nên số lượng tăng cao và gây nên tổn thương gan ở các mức độ khác nhau. Giai đoạn này gọi là viêm gan vi rút B mạn tính có HBeAg(-) và đặc trưng bởi sự dao động của số lượng vi rút trong máu, điển hình từ 2000-20.000.000 IU/mL (104-108
copies/mL), men gan (ALT) tăng kéo dài hoặc tăng dao động, và tổn thương gan tiến triển khi sinh thiết gan.


Đánh giá bệnh nhân nhiễm vi rút viêm gan B:

Đánh giá ban đầu bệnh nhân nhiễm vi rút viêm gan B bao gồm : Công thức máu, TQ, chức năng gan, lượng vi rút (HBV-DNA), HBeAg , anti-HBe, huyết thanh kháng viêm gan vi rút A, C, D, kháng thể kháng HIV với những người có yếu tố nguy cơ, AFP, siêu âm bụng, nếu cần có thể sinh thiết gan để đánh giá quyết định điều trị. Sinh thiết gan có ích trong những bệnh nhân >35 tuổi với men gan bình thường, khoảng 20%-30% những người này có xơ hóa gan mức độ 2.
Nồng độ vi rút có thể phát hiện ở mức < 10 UI/mL (50 copies/mL) bằng phương pháp phân tử, nên đượ thực hiện để đánh giá trước điều trị, theo dõi đáp ứng với điều trị, và theo dõi sự phát triển kháng thuốc trong quá trình điều trị. Đánh giá ban đầu cũng nên bao gồm HBV genotype, có giá trị để xác định diễn tiến tự nhiên so sánh giữa genotype B và genotype C thì genotype B có bệnh hoạt động ít hơn, chuyển đổi huyết thanh sớm hơn và tần suất vào ưng thư gan ít hơn. Ở những bệnh nhân da trắng genotype A đáp ứng tốt hơn với interferon hoặc Peginterferon so sánh với những người nhiễm genotype D. Những bệnh nhân Châu Á nhiễm HBV genotype B có thể đáp ứng tốt hơn những người nhiễm genotype C.


ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN VI RÚT B MẠN TÍNH
Tiêu chuẩn điều trị:
Chẩn đoán VGSVB mạn khi có số lượng virut (HBV – DNA ) trong huyết thanh cao, men gan tăng (ALT) và viêm hoại tử khi sinh thiết gan. Theo đề nghị của các nhà lâm sàng Hoa Kì gần đây người ta xác định mức độ men gan bình thường để xem xét điều trị là trên 30 IU/ L ở nam và 19 IU /L ở nữ. Còn theo hướng dẫn của Hiệp Hội Gan Mật Hoa Kì ( AASLD ) gợi ý rằng men gan ( ALT ) nên tăng gấp đôi trước khi bắt đầu điều trị ngoại trừ sinh thiết gan chỉ ra rằng có diễn tiến bệnh. Điều trị hiện nay chỉ được giới thiệu cho những bệnh nhân ở giai đoạn thanh thải miễn dịch và tái hoạt động (HBV–DNA)
trên ngưỡng xác định cùng với men gan tăng trên giới hạn trên bình thường, và/ hoặc viêm hoại tử khi sinh thiết gan.

Mục tiêu điều trị
Mục tiêu đầu tiên của điều trị viêm gan siêu vi B mạn tính là ức chế kéo dài số lượng siêu vi (HBV – DNA ) điều này sẽ dẫn đến làm giảm diễn tiến tới xơ gan, suy gan và ung thư gan đã được chứng minh bởi nghiên cứu đoàn hệ lớn ở Đài Loan. Nghiên cứu này cho thấy rằng lượng vi rut ≥ 104
copeis/ mL (khoảng 2000 IU/ mL) thì liên quan đến sự phát triển xơ gan và ung thư gan nhiều hơn ở thập kỷ sau trong những bệnh nhân không điều trị ( JO lloeje – gastro – 2006 – 03 ). Một nghiên cứu ở năm 2004 cho thấy rằng trong những bệnh nhân xơ hóa gan tiến triển, điều trị lamivudine kéo dài làm giảm bệnh gan mất bù và tần xuất ung thư gan so với giả dược. Điều này chỉ ra rằng ức chế vi rút lâu dài bằng kháng vi rút có thể làm diễn tiến bệnh chậm lại. Những dấu hiệu xác định hiệu quả của điều trị bao gồm ức chế số lượng của vi rút thấp nhất và có thể không phát hiện, bình thường hóa men gan, cải thiện mô học, chuyển đổi huyết thanh HBeAg ở những bệnh nhân có HBeAg (+), và hiếm hơn có sự chuyển đổi huyết thanh HBsAg.

Phác đồ điều trị
Phác đồ điều trị này dựa vào những bằng chứng nghiên cứu, kinh nghiệm lâm sàng và những ý kiến đồng thuận của các chuyên gia và dựa trên những đề nghị hướng dẫn của Hội Gan Mật Hoa Kì ( AASLD), Hội Gan Mật Châu Âu ( EASL) và Hội Gan Mật Châu Á Thái Bình Dương (APASL)
Những thuốc điều trị viêm gan siêu vi B mạn tính hiện nay được chấp nhận bởi cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kì (FDA) : Interferon alfa-2b ( 1991), Lamivudine (1998) Adefovir (2002) Entecavir ( 2005), Peginterferon alfa-2a ( 2005) và Telbivudine ( 2006). Hiện nay điều trị đơn trị liệu ban đầu được hướng dẫn bởi Hội Gan Mật Hoa Kì và các nhà lâm sàng Hoa Kì là các thuốc uống Adefovir, Entecavir và thuốc chích(tiêm)Peginterferon alfa-2a. Interferon alfa - 2b chuẩn hầu như dần được thay thế bởi Peginterferon alfa-2a và Lamivudine thì không được đề nghị như là lựa chọn đầu tay trong cộng đồng vì có tỷ lệ kháng thuốc cao, Telbivudine cũng vậy.


Điều trị ban đầu:
Mục đích đầu tiên của điều trị kháng vi rút là ức chế vi rút lâu dài và ổn định đến mức thấp nhất có thể. Theo phác đồ điều trị của các nhà lâm sàng Hoa Kì mới cập nhật đối với bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính có HBeAg (+) thì ngưỡng của HBV DNA để điều trị là ≥ 20,000 IU/mL cùng với tăng men gan (ALT) trên giới hạn trên bình thường (30 IU/L ở nam và 19 IU/L ở nữ) và /hoặc có viêm hoại tử trên sinh thiết gan (Bảng 1 ).

Bảng 1:Tiêu chuẩn điều trị bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính HBeAg (+) [US]

HBV – DNA < 20,000 IU/mL và men gan ALT bình thườngKhông điều trị nhưng theo dõi mỗi 6 đến 12 tháng
Xem xét điều trị ở những bệnh nhân có viêm hoại tử trên mô học ngay cả số lượng virus thấp.
•HBV – DNA > 20,000 IU/ mL và men gan ALT bình thường
Tỷ lệ HBeAg chuyển đổi huyết thanh thấp ở tất cả các bệnh nhân điều trị
Những bệnh nhân trẻ hơn thì thường ở giai đoạn dung nạp miễn dịch.
Xem xét sinh thiết gan đặc biệt ở những bệnh nhân lớn hơn 35 tuổi và điều trị nếu có viêm hoại tử. nếu không sinh thiết được theo dõi sự tăng lên của men gan.
Nếu điều trị, các thuốc uống Adefovir, Entecavir và thuốc chích (tiêm)Peginterferon alfa-2a thì được đề nghị. Thuốc uống Telbivudine có thể sử dụng ở những bệnh nhân không phát hiện được HBV – DNA ở tuần 24 của điều trị
•HBV – DNA ≥20,000 IU/mL và men gan ALT tăng
Các thuốc uống Adefovi, Entecavir và thuốc chích(tiêm) Peginterferon alfa-2a thì được đề nghị. Thuốc uống Telbivudine có thể sử dung ở những bệnh nhân không phát hiện được HBV – DNA ở tuần 24 của điều trị
Nếu bệnh nhân có số lượng vi rut cao thì các thuốc uống Adefovir, Entecavir hoặc Telbivudine thì được đề nghị hơn là thuốc chích(tiêm)Peginterferon alfa-2a.
•Thời gian điều trị tùy theo từng cá thể, tiếp tục 6 đến 12 tháng sau khi có chuyển đổi huyết thanh HBeAg (+) thành anti HBe (-) và HBV – DNA âm tính.


Bảng 2 :Tiêu chuẩn điều trị bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn HBeAg(+) của Hội Gan Mật Hoa Kì 2007 (AASLD)

•Những người điều trị
Bệnh nhân có HBV - DNA > 20,000 IU/ml và ALT > hai lần giới hạn trên bình thường
Xem xét sinh thiết gan nếu bệnh nhân lớn hơn 40 tuổi có men gan ALT lớn hơn từ một đến hai lần giới hạn trên bình thường (ALT ≥ 1-2 lần) và trong gia đình có người bị ung thư gan. Điều trị nếu không có chuyển đổi huyết thanh HBeAg.
•Thuốc được lựa chọn : Các thuốc uống adefovir, entecavir và thuốc chích Peginterferon alfa-2a
•Thời gian điều trị: tiếp tục 6 tháng sau khi có chuyển đổi huyết thanh HBeAg thành anti HBe.

Phác đồ điều trị của các nhà lâm sàng Hoa kì ở bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn có HBeAg (+) có thể so sánh với hướng dẫn của AASLD 2007 (Bảng 2). Sự khác nhau đầu tiên của hai hướng dẫn này là mức độ men gan để xác định đưa vào điều trị, hướng dẫn để sinh thiết khi cần thiết và khác biệt nhỏ nữa là xác định thời gian điều trị. Cả hai hướng dẫn đều chọn adefovir, entecavir và Peginterferon alfa-2a là là những thuốc lựa chọn đầu tay để điều trị bệnh nhân viêm gan B mạn tính HBeAg (+). Peginterferon alfa-2a, adefovir và entecavir được lựa chọn nhiều hơn lamivudin vì chúng cho thấy rằng khả năng ức chế mạnh hơn lamivudin trong những thử nghiệm ngẫu nhiên, và lamivudin thì bị hạn chế bởi tỷ lệ kháng thuốc ( JO – Lau – NEJM – 2005 – 06 ). Một cập nhật của phác đồ của các nhà lâm sàng Hoa Kì cũng bao gồm telbuvudine như một một khả năng điều trị đầu tay bởi vì tỷ lệ đáp ứng vi rút mạnh hơn và tỷ lệ kháng thuốc thấp hơn so với lamivudin. Tuy nhiên telbivudin có tỷ lệ kháng thuốc cao điều mà có thể giảm đến mức tối thiểu nếu HBV - DNA (-) sau 24 tuần điều trị. Vì thế bệnh nhân cần được theo dõikhi điều trị với telbivudin để xác định sự ức chế vi rút nhanh và mạnh. Khi đáp ứng không tốt, nếu phát hiện HBV - DNA sau 24 tuần điều trị thì nên đổi thuốc hoặc thêm vào một thuốc thứ 2 để tránh kháng thuốc
Những bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn HBeAg (-), với lượng vi rút ≥ 2000 IU/ ml thì được đề nghị trong phác đồ của các nhà lâm sàng Hoa Kì ( Bảng 3), trong khi lượng vi rút > 20,000 IU/ ml thì được đề nghị trong hướng dẫn của Hội Gan Mật Hoa Kì ( Bảng 4) vì những lý do như thế Các thuốc uống adefovir, entecavir, thuốc chích Peginterferon alfa-2a thì được lựa chọn đầu tay. Trong thực hành Peginterferon alfa-2a đã thay thế dần interferon chuẩn, lamivudine không được lựa chọn vì khả năng kháng thuốc cao; telbivudine có thể là lựa chọn nếu lượng vi rút không phát hiện trong huyết thanh sau 24 tuần điều trị.


Bảng 3: Tiêu chuẩn điều trị bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính HBeAg (-) [US]

HBV - DNA < 2000 IU/mL và men gan(ALT) bình thường.
-
-Không điều trị hầu hết là mang HBsAg (+), theo dõi mỗi 6-12 tháng
- Xem xét điều trị ở những bệnh nhân có viêm hoại tử trên mô học ngay cả số lượng virus thấp.

HBV – DNA ≥ 2000 UI/mL và men gan (ALT) bình thường
-
-Xem xét sinh thiết gan và điều trị nếu có viêm hoại tử. Nếu không sinh thiết được theo dõi sự tăng lên của men gan.
- Nếu điều trị thì các thuốc uống Adefovir, Entecavir và thuốc chích Peginterferon alfa-2a thì được đề nghị. Thuốc uống Terbivudin có thể sử dụng ở những bệnh nhân không phát hiện được HBV – DNA ở tuần 24 của điều trị

HBV – DNA ≥ 2000 IU/mL và men gan (ALT) tăng

- Nếu điều trị thì các thuốc uống Adefovir, Entecavir và thuốc chích Peginterferon alfa-2a thì được đề nghị. Thuốc uống Terbivudin có thể sử dụng ở những bệnh nhân không phát hiện được HBV – DNA ở tuần 24 của điều trị
- Thời gian điều trị thì lâu dài. Không biết trước được khi nào thì dừng.
Thời gian điều trị :Một năm cho điều trị Peginterfron, ngược lại nếu dùng thuốc uống thì lâu dài.


Bảng 4: Tiêu chuẩn điều trị bệnh nhân viêm gan mạn tính có HBeAg (-) của hội gan mật Hoa Kì (AASLD)

Bệnh nhân phải điều trị:
-Bệnh nhân có HBV DNA > 20.000 IU/mL và ALT > 2 lần giới hạn trên bình thường (30 ở nam, 19 ở nữ)
-Sinh thiết gan và điều trị nếu cần thiết đối với những bệnh nhân có HBV DNA ≥ 2000 IU/mL và men gan ALT 1-2 lần giới hạn trên bình thường.
Thuốc được lựa chọn: Adefovir, Entecavir, hoặc Peginterferon
Thời gian điều trị:
+ Điều trị với Peginterferon thì sử dụng 1 năm.
+ Điều trị lâu dài với các thuốc uống.


Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ : 0973332733

Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2008

SỰ QUAN TRỌNG VỀ ĐỘ NHẠY CỦA XÉT NGHIỆM HCV-RNA

Không phát hiện được vi rút viêm gan C trong máu khi điều trị, ngay cả khi sử dụng phương pháp xét nghiệm chuẩn định tính HCV-RNA (giới hạn phát hiện ≥ 50 IU/mL) thì không có nghĩa thực chất là đã hoàn toàn loại trừ hết vi rút khỏi máu. Bây giờ có phương pháp mới nhạy hơn đang được áp dụng (ví dụ như: Transcription-mediated amplification [TMA] hoặc real-time PCR với giới hạn phát hiện < 10 IU/mL), một tỉ lệ bệnh nhân có ý nghĩa phát hiện được có vi rút trong máu mà những người này trước đó không phát hiện được vi rút trong máu bằng phương pháp xét nghiệm chuẩn. Điều này gợi ý rằng những bệnh nhân tái phát có thể là những người mà trước đó không đáp ứng do nồng độ vi rút của họ thấp mà kỹ thuật trước kia không phát hiện được(số lượng vi rút ít còn lại).
Như vậy điều quan trọng là sự phát hiện số lượng vi rút ít còn lại tại tuần thứ 12 là một yếu tố dự đoán quan trọng của sự tái phát về sau. Morishima và cộng sự đã cung cấp bằng chứng tất cả những bệnh nhân phát hiện số lượng vi rút ít còn lại tại tuần thứ 12 mà vẫn còn phát hiện ở tuần thứ 20 thì đã tái phát. Sự sử dụng những xét nghiệm HCV RNA có độ nhạy cao để xác định chiến lược điều trị cụ thể thì vì thế không thể thiếu.


Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ : 0973332733

Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2008

CHỮA BỆNH Ở SINGAPORE : COI CHỪNG "CHÉM ĐẸP" !

Theo báo Thanh niên 24/10/2008 23:16

Có quá nhiều phàn nàn về việc tính phí vô tội vạ tại các bệnh viện tư ở Singapore, đến mức bác sĩ Lee Wei Ling, Giám đốc Viện Khoa học thần kinh quốc gia tại bệnh viện công Tan Tock Seng, đã lên tiếng yêu cầu khôi phục lại "Quy định về thu phí" ở bệnh viện tư bị bãi bỏ cách đây vài năm.
Bà Lee Wei Ling, chuyên gia về thần kinh, Giám đốc Viện Khoa học thần kinh quốc gia tại bệnh viện công Tan Tock Seng, cũng là em gái Thủ tướng Lý Hiển Long đã lên tiếng bằng một bài viết lớn trong mục "Cố vấn" (Think-tank) hằng tuần của báo Straits Times, tờ báo uy tín nhất Singapore, ngày 15.10. Theo bà Lee, trước năm 2006, Hiệp hội Y tế Singapore (SMA), tổ chức đại diện số đông bác sĩ tại tất cả bệnh viện công và tư của nước này, có một "Quy định về thu phí" (GoF) áp dụng tại các bệnh viện tư. GoF đưa ra biểu phí tham khảo cho công khám bệnh của bác sĩ cũng như các thủ thuật chẩn đoán, điều trị.
Theo đó, bác sĩ và bệnh viện có thể thu của bệnh nhân cao hơn mức tham khảo, nhưng việc đó phải được thông báo trước. Điều đó giúp bệnh nhân dự tính trước được chi phí để cân nhắc chọn lựa, cũng như có quyền mong đợi một kết quả mỹ mãn từ việc bị thu phí cao. Dù vậy, đôi khi vẫn có trường hợp bệnh nhân chỉ biết mình bị tính phí cao hơn mức của GoF khi nhận giấy báo tính tiền, và họ phàn nàn với SMA. Cơ quan này khi đó yêu cầu bác sĩ chứng minh khoản phí thu cao, nếu không thỏa đáng, bác sĩ bị yêu cầu trả lại phần thu vượt. GoF được áp dụng từ năm 1987, qua nhiều lần điều chỉnh, và góp phần đáng kể vào việc bảo vệ bệnh nhân.
Thế nhưng trong năm 2006, SMA bãi bỏ GoF với lập luận rằng quy định này mâu thuẫn với Luật cạnh tranh. "Nực cười là mục tiêu của Luật cạnh tranh là nhằm bảo vệ người tiêu dùng khỏi việc trả giá quá cao bằng cách để thị trường định giá. Và GoF được thiết kế đúng mục tiêu đó, bởi bác sĩ và bệnh nhân là hai đối tượng không bình đẳng trong việc nắm giữ thông tin", bà Lee lý luận về sự cần thiết của GoF.
Theo bà, cơ chế định giá theo thị trường tự do chỉ hiệu quả khi người bán và người mua nắm thông tin ngang nhau. Rõ ràng trong lĩnh vực y tế, bác sĩ nắm giữ nhiều thông tin hơn, và vì thế dịch vụ y tế không thể được coi như những hàng hóa khác. Phần lớn bệnh nhân không có điều kiện, thời gian để tìm hiểu về bác sĩ, bệnh viện và giá cả mỗi nơi ra sao khi họ ngã bệnh. Bệnh nhân nước ngoài thì càng hạn chế về điều này. Bác sĩ, vì vậy, nắm quyền định đoạt đối với bệnh nhân.
Từ khi GoF mất hiệu lực, việc tính phí của bác sĩ ở bệnh viện tư diễn ra tùy tiện. "Bác sĩ bây giờ thu phí cao đến mức nào mà họ nghĩ họ có thể "vắt" được từ bệnh nhân. Thường thì mức thu phụ thuộc bề ngoài của bệnh nhân như áo quần, trang sức, bệnh nhân có mua bảo hiểm y tế hay không. Bệnh nhân nước ngoài lại càng là đối tượng bị "chém đẹp" bởi họ không có nhiều thông tin", bà Lee nêu thực trạng như vậy. "Tôi từng trực tiếp nghe một bệnh nhân Indonesia than phiền là phải trả 100.000 SGD cho việc phẫu thuật cắt bỏ túi mật, thủ thuật khá đơn giản này thông thường có giá chỉ 10.000 SGD. Đã có quá đủ những trường hợp đáng xấu hổ như vậy xảy ra, và một số bệnh viện tư đã "nổi tiếng" vì việc này", bà Lee viết. Bà Lee cũng đề cập trường hợp bác sĩ yêu cầu bệnh nhân thực hiện các xét nghiệm, chụp phim không cần thiết, mà bệnh nhân thì không thể từ chối. Ở bệnh viện công, các loại phí do Bộ Y tế quy định, vì vậy bác sĩ không thể tùy tiện đối với bệnh nhân.
Bà Lee còn nói rằng: "Chính phủ đang muốn quảng bá dịch vụ du lịch y tế. Nhưng tin xấu về việc lạm thu của các bệnh viện đang lan truyền nhanh chóng ở nước ngoài. Lòng tham sẽ giết chết "con ngỗng vàng" du lịch y tế trước khi nó kịp đẻ trứng". Bà cũng nói rằng việc lạm thu của những bác sĩ lớp trước sẽ gây hại đến những thế hệ bác sĩ trẻ khi họ đi vào những bệnh viện tư. Đã có một sự xuống dốc về y đức. Không chỉ lạm thu, các bác sĩ còn cố tình giới thiệu bệnh nhân đến những bác sĩ quen biết của mình để thực hiện những xét nghiệm, những điều trị đắt tiền, không cần thiết, thậm chí gây hại cho bệnh nhân.

Thục Minh (Văn phòng Singapore)

Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2008

DICH VỤ CHỮA BỆNH NGOẠI QUỐC: "Cỗ máy" hút tiền người bệnh? (Theo VietNamNet)



Dịch vụ chữa bệnh ngoại quốc: "Cỗ máy" hút tiền người bệnh?
07:24' 13/08/2008 (GMT+7)
– Dự kiến tốn khoảng 10.000SGD cho việc đốt khối u trong gan, và vài ngày lưu lại Bệnh viện Mount Elizabeth, thuộc hệ thống Parkway Health ở Singapore. Thế nhưng, khi xuất viện, bệnh nhân đã phải chi hơn gấp 10 lần số tiền dự toán ban đầu.


TIN LIÊN QUAN:



Khi đã lựa chọn bệnh viện ở ngoại quốc là nơi để điều trị, đặc biệt với những bệnh viện có tiếng về chất lượng dịch vụ, bệnh nhân đã chấp nhận các khoản phí lớn gấp nhiều lần so với việc điều trị trong nước.
Thế nhưng, khi đã dính “guồng”, cả đại gia lắm tiền cũng không khỏi choáng váng với các khoản viện phí lớn từ trên trời rơi xuống, nằm ngoài dự tính, gánh nặng tiền chữa bệnh đè nặng lên tâm lý bệnh nhân và gia đình họ.
Viện phí "đội" 10 lần, bệnh nhân thành... con nợ
Trước khi sang Singapore điều trị, anh Nguyễn Văn Lộc được văn phòng đại diện Parkway Health tại TP.HCM cho hay, việc đốt khối u ở gan của anh, nếu có chỉ phải tốn 6.000–7.000USD (tương đương 9.000–10.000SGD).
Số viện phí trên, với một ông chủ doanh nghiệp chuyên sản xuất và xuất khẩu nệm lò xo sang Mỹ, không phải là khoản tiền lớn, nên anh Lộc nhanh chóng quyết định sang Singapore chữa trị tại Bệnh viện Mount Elizabeth, nơi được cho là có dịch vụ tốt nhất trên đảo quốc sư tử.

Chi phí thực đội lên gấp 10 lần so với ban đầu, đã đẩy anh Lộc thành "con nợ" tại Singapore.
Nhưng sau khi được đưa vào tiến trình điều trị, vợ chồng anh Lộc phát hoảng với viện phí thực được đội lên gấp hơn 10 lần so với lời giới thiệu từ Việt Nam. Nhưng đã bị “dính” vào quá trình điều trị, trong đó có cả việc chữa ruột ngoài mong đợi, đã đẩy vợ chồng anh Lộc thành con nợ ở Singapore và bị giữ lại hộ chiếu.
Theo tường thuật của anh Lộc, chỉ tính chi phí trên hoá đơn, số tiền đã lên 101.000SGD (1SGD = 12.000 đồng). Trong đó, anh Lộc chỉ mới đóng cho bệnh viện 63.000SGD, còn nợ 38.000SGD. Số viện phí anh Lộc đã đóng, có 2/3 là chi phí chữa trị ruột, do chính bệnh viện gây ra bệnh cho anh.
Anh Lộc kể: “Những ngày nằm tại bệnh viện chữa thủng ruột do ảnh hưởng tiến trình đốt u ở gan, chi phí ngoài ý muốn đội lên khủng khiếp, nhưng phải chấp nhận, bởi không thể có lựa chọn khác, khi bệnh tình đang chữa dở dang.
Như trong thời gian chữa vết thương, chống nhiễm trùng ở ruột, người ta đưa vào người tôi 3 cục hoá chất, mỗi cục như vậy họ báo cho biết có giá 3.000SGD, nhưng chỉ mới sử dụng được 20% họ đã thay cục khác, cứ thế tôi phải mất thêm 9.000SGD một cách hết sức vô lý”.
Việc gây ra hậu quả thủng ruột ngoài ý muốn trong quá trình điều trị đã không được bệnh viện thừa nhận, và bồi thường thiệt hại cho bệnh nhân, ngược lại, bệnh viện gần như tận thu tất cả các loại phí điều trị bệnh do chính họ gây ra.
“Họ (Bệnh viện Mount Elizabeth - PV) đã không có trách nhiệm gì với tôi, khi hậu quả ngày hôm nay do chính họ trực tiếp gây ra”, anh Lộc nói.
Lọt vào “ma trận”
Từ các thông tin anh Lộc cung cấp, chúng tôi đến Văn phòng đại diện của Parkway Health tại toà nhà 37 Tôn Đức Thắng, quận 1, TP.HCM. Văn phòng nhỏ thó tại số 224, ở tầng 2, với khoảng 3 cô nhân viên và vị trưởng phòng đại diện tên Dương Phong Nghi.
Hầu hết các vị khách hàng đến văn phòng Parkway Health tại TP.HCM đều có dấu hiệu, hoặc vấn đề về bệnh ung thư. Bệnh nhân được sự tư vấn nhiệt tình, trực tiếp của vị trưởng văn phòng đại diện tên Nghi.
Sau khi nghe bệnh nhân khái quát về bệnh án, ông Nghi bắt đầu tư vấn cho khách hàng. Việc quyết định có, hay không sang các bệnh viện trong hệ thống của Parkway Health ở Singapore điều trị là thuộc về khách hàng. Tuy nhiên, với cách tư vấn như tiếp thị, hiếm khách hàng nào thoát khỏi “ma trận” đã được giăng ra. Trong đó, anh Lộc là nạn nhân cụ thể.
Văn phòng đại diện của Parkway Health tại TP.HCM.
Mặc dù không có chuyên môn hay nghiêp vụ về bệnh ung thư, thế nhưng, ông Nghi vẫn tư vấn và thuyết phục với khách hàng về bệnh ung thư và việc điều trị ung thư tại các bệnh viện ở Singapore mà ông đang làm đại diện tại TP.HCM.
Việc của ông Nghi là kéo các bệnh nhân, vừa là khách hàng đến với mình qua được Singapore, điều trị tại một trong các bệnh viện của Parkway Health. Những việc khác, văn phòng đại diện của ông Nghi hầu như giũ sạch trách nhiệm với khách hàng?
Trong những ngày qua, anh Lộc liên tục liên lạc với Văn phòng đại dịên của Parkway Health tại TP.HCM ở địa chỉ trên, để yêu cầu Bệnh viện Parkway Health nhận trách nhiệm về hậu quả họ đã gây ra với mình, thế nhưng anh Lộc vẫn không nhận được sự quan tâm đúng mực!?

Phan Công

Ý kiến độc giả

Độc giả: Nguyễn Thanh Hương41 Đồng Xoài, P.13, Tân Bình, HCMEmail: hungtqhydro@yahoo.com
Tôi mắc bệnh ung thư và đã có 3 năm kinh nghiệm trực tiếp điều trị tại bệnh viện ở Singapore vì vây tôi rất muốn chia xẻ thông tin và những kinh nghiệm cho những bệnh nhân khác hoặc những ai quan tâm, đặc biệt tôi muốn cung cấp thêm những thông tin về Parkway và BS Ang Peng Tiam. Tôi rất mong Vietnamnet đăng bài viết này của tôi để mọi người có thêm thông tin tham khảo. Đây không chỉ là ý kiến của riêng tôi mà của rất nhiều bệnh nhân người Việt cùng tôi chữa trị ở Singapore, hy vọng sẽ hữu ích cho những ai có ý định chữa bệnh ở Singapore.
Ba năm trước đây khi tôi được chuẩn đoán mắc bệnh ung thư, tôi đã mất một tuần đầu đi khám và tư vấn các bác sỹ ở BV Ung Bướu và BV Chợ Rẫy và nhận ra rằng, nếu chữa trị trong nước mình sẽ không có nhiều cơ may và quyết định ra nước ngoài chữa trị. Nói vậy có lẽ làm phật lòng các BS trong nước nhưng tôi tin rằng rất nhiều người trong hoàn cảnh như tôi cũng có chung nhận định như vậy, bởi vì bất cứ ai đã từng bước chân đến BV K ở Hà Nội hay BV Ung Bướu ở TP.HCM cũng sẽ phải tự đặt câu hỏi rằng với số lượng bệnh nhân đông kinh khủng và cở sở vật chất nghèo nàn lạc hậu như vậy, chất lượng đều trị có được đảm bảo?
Sau khi quyết định tìm đường ra nước ngoài chữa trị, tôi được giới thiệu đến văn phòng của tập đoàn Parkway và rất nhanh chóng sau đó hai ngày tôi đã có mặt tại phòng khám của BS Ang Peng Tiam, người được coi là một trong những BS danh giá nhất của tập đoàn. Từ đây tôi bắt đầu cuộc chiến của mình chống lại căn bệnh quái ác và song song với nó một cuộc chiến khốc liệt không kém bắt đầu, đó là tiền.
Thật may mắn tôi có được sự giúp đỡ của gia đình, bà con và bạn bè không chỉ động viên tinh thần mà còn giúp đỡ rất nhiều về tiền bạc, điều đó tạm thời giúp tôi vơi đi nỗi lo mà tập trung vào chữa trị. Tôi đã trải qua tám kỳ điều trị tại phòng khám (clinic) của BS Ang cho tới khi nhận thấy mình mình phải trả phí quá cao và quyết định chuyển sang BV khác.
Ngay từ lần điều trị đầu tiên, tôi đã cân nhắc về việc điều trị tại bệnh viện công tại Singapore, nhưng vì cho rằng sẽ gặp nhiều thủ tục rắc rối giống như các bệnh viện công ở Việt Nam, hơn nữa lúc đó quá bối rối và đặt niềm tin hoàn toàn vào BS Ang nên tôi đã không quan tâm đến những lựa chọn khác. Tuy nhiên, điều đáng nói là BS Ang tính phí quá cao mà không cần quan tâm đến hoàn cảnh của bệnh nhân. Sau này khi đã chuyển sang điều trị tại Bệnh viện National University Hospital (NUH) tôi so sánh lại những khoản phí trước đây trả cho BS Ang và thấy rằng tất cả các loại thuốc đều cao hơn gấp đôi hoặc gấp ba lấn, thậm chí có một vài loại thuốc giá cao hơn gấp bảy lần. Quả là một mức giá cắt cổ mà chỉ những người giàu có mới chịu nổi. Trong quá trình điều trị tôi biết một bệnh nhân đã điều trị liên tục trong gần 3 năm tại phòng khám của BS Ang với số tiền nhiều đến mức khó tin đến nỗi, chính BS Ang phải nói với bệnh nhân là nếu qui đổi số tiền đó ra vàng thì nặng tương đương với trọng lượng cơ thể bệnh nhân. Điều này hoàn toàn có thật bởi nếu thử nhẩm tính mỗi kỳ điều trị khoảng SD$15,000 – SD$20,000 x 17 kỳ/năm trong vòng 3 năm, cộng thêm các chi phí nằm viện, xét nghiệm, truyền máu… (chưa kể chi phí ăn ở đi lại).
Dĩ nhiên, đối với các bệnh nhẹ hơn chi phí sẽ thấp hơn, nhưng ít nhất cũng khoảng một nửa số tiền trên cho mỗi kỳ điều trị. BS Ang rất tự tin và rất giỏi thuyết phục nên ban đầu bệnh nhân hoàn toàn tin tưởng cho tới khi túi tiền vơi đi đáng kể và đối mặt với nguy cơ bị ngừng điều trị. Tôi cũng đã rơi vào hoàn cảnh tương tự. Ban đầu BS nói với tôi chỉ cần điều trị trong 4 tháng với chi phí vừa phải, nhưng đến lần thứ hai thì chi phi tăng lên do những phát sinh thêm, đến lần thứ 4 thì BS nói phải đổi thuốc và dĩ nhiên tăng thêm chi phí. Việc thay đổi các phương án điều trị là bình thường nhưng sau này xem xét lại tôi biết rằng hoàn toàn nằm trong dự kiến và có thể tiên lượng trước được, chỉ có điều BS Ang không cho mình biết trước để chuẩn bị. Sau này khi chuyển sang BV khác điều trị tiếp, tôi vẫn còn ấm ức vì với số tiền đã trả cho BS Ang (cho cùng một phác đồ điều trị) tôi có thể lo đủ cho toàn bộ chi phí điều trị mà không phải vay mượn thêm. Tôi đã phải trả học phí quá cao, nhưng đó là câu chuyện 3 năm trước, tôi không muốn các bệnh nhân lặp lại bài học cũ của tôi.

Tại sao anh không nghĩ đến chuyện khởi kiện nhỉ? Bệnh do bệnh viện gây ra, ngoài việc không được tính viện phí họ còn phải bồi hòan tiền làm suy giảm sức khỏe nữa chứ. Tôi nghĩ anh nên tham khảo ý kiến luật sư.

Email: vuthithan@yahoo.com
Nhân đọc bài " Đi nuớc ngoài chữa bệnh", tôi thấy anh Lộc có đầy đủ chứng cứ (các xét nghiệm, sinh thiết của BV Singapore và của BV Mỹ) vậy là đã rõ nguyên nhân gây ra tình trạng bệnh tật của anh hiện nay. Tại sao anh Lộc không khởi kiện BV Singapore để đòi bồi thuờng để lấy tiền điều trị các bệnh do họ gây ra? (Có thể kiện chi nhánh của họ ra toà ở VN).

Giấu tên
Tôi không hiểu anh Lộc đã kiện bệnh viện kia chưa? Nếu chưa thì nên làm ngay vì bệnh viện này đã sai phạm rõ rệt, không những anh Lộc không phải trả tiền viện phí cho một phẫu thuật không cần thiết, do họ tạo ra, mà họ còn phải đền bù những tổn thất về sức khoẻ, sự đau đớn thể xác, về thời gian và những thiệt hại kinh tế của anh do việc anh Lộc phải nằm viện dài ngày.

Độc giả: Phạm Vân Anh Hà Nội Email: maivu47@yahoo.com.vn
Tôi muốn chia sẻ cùng các Anh Lộc và các độc giả về kinh nghiệm đi chữa bệnh tại Singapore. Việc ra nước ngoài chữa bệnh là một quyết định rất quan trọng đối với từng trường hợp vì liên quan đến vấn đề tài chính. Tôi cũng đã đưa người nhà sang Bệnh viện Raffles, Singapore chữa cho người nhà bị U gan giống như Anh Lộc và chi phi cũng giống như ban đầu của ông Trưởng Đại Diện tư vấn khoảng 8,000 đô la Singapore. Tôi đã qua tổ chức của VietSingCorp ( VP đại diện BV Raffles), văn phòng ở đây không quảng cáo hoàng tráng như Parkway nhưng thái độ nhiệt tình với bệnh nhân cả hai đầu Việt Nam và Singapore đã làm cho chúng tôi yên tâm rất nhiều.
Điều đặc biệt là các anh chị trong tổ chức này là những người đã có kinh nghiệm hỗ trợ bệnh nhân rất lâu và đang làm việc tại các bệnh viện tại Singapore, cho nên có thể tìm được bác sỹ tốt và tư vấn cho bệnh nhân kế hoạch cụ thể và biết cách giảm thiểu tối đa chi phí cho bệnh nhân. Tôi cũng chia sẻ rằng không phải ai sang Sing cũng được toại nguyện vì nền y tế Singapore không phải thần thánh gì, nhưng họ hơn chúng ta về trang thiết bị, chuyên môn đồng đều và bác sỹ ở đây được update kiến thức liên tục.
Hiện nay, người nhà tôi sức khoẻ rất tốt, điều tôi muốn chia sẻ với các độc giả là nên chọn tổ chức nào có kinh nghiệm hỗ trợ bệnh nhân, và làm phải có tâm với bệnh nhân.

Email: hairealtor@yahoo.com
Tôi ở Mỹ về VN được một tháng, sau khi đọc bài viết này, tôi cũng muốn bày tỏ bức xúc của mình về cách làm việc của BV Mount Elizabeth. Hơn một năm trước, bố vợ tôi bị phát hiện ung thư gan và gia đình tôi đã quyết định cho ông sang bệnh viện này để chữa trị. Chi phí chữa trị khoảng 40.000 USD. Khi xuất viện, BV nói đã chữa trị xong, nhưng bố vợ tôi vừa qua Mỹ được một tháng sau thì bệnh là tái phát.
Ông đã vào bệnh viện của Mỹ song không thể cứu chữa vì ung thư đã vào thời kỳ cuối. Bố tôi chết 2 tháng say đó. Các bác sĩ Mỹ nói rằng không có cách nào chữa bệnh ung thư gan cả, nhưng các bác sĩ Singapore đã nói dối để gia đình tôi yên lòng, không thông báo về tình trạng bệnh tình thật của bố tôi.
Tôi không trách BV Elizabeth không cứu được bố tôi, nhưng trách là bệnh viện đã không trung thực. Tôi đang ở VN, vì 18/8 này là ngày giỗ một năm của bố vợ tôi.
GS. BS Nguyễn Chấn Hùng - giám đốc BV Ung bướu TP.HCM - cho biết:
"Có thể hiểu biết cơ bản của BS ở Singapore tốt hơn nhưng kinh nghiệm thực tế của mình vững vàng hơn, phương pháp xử lý điều trị của mình tốt hơn do mình làm nhiều hơn.
BN không biết ở nước ngoài có thuốc gì trị ung thư thì tại VN có thuốc đó. Thật ra, với bệnh ung thư nếu BN được phát hiện và điều trị ở giai đoạn sớm thì kết quả điều trị ở nước ngoài ngang bằng với BV Ung bướu. Nhưng nếu bệnh đã vào giai đoạn trễ thì ở nước ngoài điều trị kết quả cũng xấu ngang với chúng ta. Chúng tôi chỉ tiếc cơ sở vật chất quá chật hẹp, xuống cấp nên không thể tiếp đón BN được tươm tất, chu đáo như ở nước ngoài".

ĐI NƯỚC NGOÀI CHỮA BỆNH (Theo VietNamNet)


Đi chữa bệnh nước ngoài, tiền mất tật mang
06:46' 12/08/2008 (GMT+7)
- Chữa bệnh về gan, nhưng anh Lộc bị đốt thủng ruột.
Mất hơn 100 ngàn đô-la chữa trị, anh ôm cơ thể bệnh hoạn chừng sắp chết, nhưng bệnh viện lại bỏ mặc anh quằn quại với cơn đau.
Phát hiện khối u tí tẹo ở gan, chưa rõ lành hay ác tính, quá sợ hãi khi nghĩ cái chết đến sẽ bỏ lại vợ trẻ con thơ và cả công việc đang dang dở, anh Nguyễn Văn Lộc (SN 1968, ngụ tại phường Long Bình, Biên Hoà, Đồng Nai) cùng gia đình chạy tìm nơi cứu chữa. Một bệnh viện ở nước ngoài là lựa chọn hàng đầu vợ chồng anh đặt ra để hy vọng sớm phát hiện ra căn bệnh nghi là ung thư gan.
Qua nhiều ngày mày mò trên internet, vợ chồng anh Lộc biết đến Parkway Health, hệ thống bệnh viện tư hàng đầu tại Singapore. Sau khi đến văn phòng Parkway Health, ở tầng 2 toà nhà 37 Tôn Đức Thắng, quận 1, TP.HCM, anh Lộc được vị trưởng văn phòng đại diện hướng dẫn sang Singapore chữa trị tại bệnh viện Mount Elizabeth, nằm trong hệ thống của Parkway Health. Từ đây, chuỗi ngày bất hạnh của anh Lộc bắt đầu…

Bệnh gan, chữa lan... qua ruột

Gặp được ông Dương Phong Nghi, Trưởng văn phòng đại diện Parkway Health tại TP.HCM, anh Lộc như người sắp chết đuối vớ được phao. Qua hàng loạt lời giới thiệu về các trang thiết bị y tế hiện đại mà Parkway Health có được, ông Nghi đã khiến anh Lộc xuôi lòng và sắp xếp cuộc gặp với bác sĩ tại bệnh viện của Parkway Health ở Singapore vào ngày 25/6/2007.

Sau khi được vị bác sĩ tên Ang Peng Tiam khám, chẩn đoán và xét nghiệm về sinh thiết gan, anh Lộc được chỉ định nhập viện ngay ngày hôm sau 26/6/2007. Nỗi lo lắng về bệnh tật đè nặng tâm lý anh, khi kết quả xét nghiệm về sinh thiểt gan không được cho bệnh nhân và người nhà biết, anh Lộc phải nhập viện và đốt khối u ở gan bằng sóng cao tần vào cùng ngày nhập viện.
Tiến trình đốt khối u (chưa rõ lành hay ác tính) kéo dài chưa đầy 20 phút, anh Lộc được đẩy ra khu vực hồi sức. Ngày hôm sau (27/6/2007), bụng anh Lộc bắt đầu quặn lên từng cơn đau nhói, có lúc dữ dội như muốn xé toạc khoang bụng. Nhưng các bác sĩ tại đây vẫn chưa phát hiện ruột của anh Lộc có vấn đề.
Cơn đau hành hạ anh Lộc 6 hôm sau, đến ngày 2/7/2007, bụng bệnh nhân trương cứng, lúc này bệnh viện mới chỉ định đưa đi CT scan, và phát hiện dịch, khí tràn ở bụng do ruột già bị thủng. Anh Lộc được đưa đi cấp cứu, mổ nối ruột trong cùng ngày.
Các bác sĩ cho hay, ruột của anh Lộc bị thủng là do… đốt khối u. Vài ngày sau, anh Lộc tiếp tục đau vùng bụng và sốt. Bệnh viện tiếp tục tìm thấy chất dịch trong phổi, do nhiễm trùng từ ổ ruột, và tiến hành hút dịch tràn ở phổi ra.
Mặc dù bệnh của anh Lộc chưa khỏi, nhưng ngày 12/7/2007, bệnh viện cho xuất viện. Cảm thấy vùng bụng chưa ổn, anh Lộc đến văn phòng bác sĩ Ang Peng Tiam khám trước khi về nước. Tại đây, bác sĩ Ang lại tìm thấy dịch ở ổ bụng và gan, nên anh Lộc được đặt ống rút dịch trong bụng và gan qua da, rồi nhập viện trở lại vào ngày 13/7/2007.
Những ngày sau đó, anh Lộc bị sốt, đau bụng, phổi, các bác sĩ tiếp tục rút dịch và hẹn ngày 21/7/2007, tiến hành mổ lần 2 để nối đoạn ruột bị thủng. Sau khi cắt đại tràng và làm hậu môn nhân tạo cho anh Lộc, dù trong tình trạng sức khoẻ rất yếu, nhưng bệnh viện vẫn để anh Lộc xuất viện vào ngày 31/7/2007.
“Họ như đẩy tôi về Việt Nam cho rồi, để tránh trách nhiệm, khi gây ra hậu quả làm hại đến sức khoẻ của tôi!” - anh Lộc nói.
Đau khổ đường về
Việc bị “đẩy” về nước tưởng như đơn giản, nhưng khi làm thủ tục xuất viện, anh Lộc và gia đình “té ngửa” khi bị bệnh viện giữ lại hộ chiếu vì thiếu 38.000SGD viện phí. Với tiền viện phí hơn 40.000SGD (trong tổng tiền viện phí 101.000SGD) chữa trị ruột ngoài mong muốn, đã đẩy gia đình anh Lộc vào thế “kẹt”. Chưa kịp xoay xở nên gia đình anh đã xin nợ số tiền còn thiếu, để chuyển anh Lộc về Việt Nam chăm sóc.

Vừa về đến Việt Nam, anh Lộc phải nhập viện ngay, và được cấp cứu tại Bệnh viện Chợ Rẫy, rồi qua Bệnh viện Bình Dân, do hậu môn nhân tạo bị chảy máu. Anh được bác sĩ phát hiện ổ dịch nhiễm trùng trong bụng, tiếp tục chịu đựng những cơn đau kéo dài nhiều ngày.
Đến tháng 4/2008, gia đình anh Lộc vay mượn tiền, và đưa anh sang Mỹ chữa trị. Sau khi nghe anh Lộc tường trình về tiến trình điều trị, các bác sĩ ở Mỹ tỏ ra ngạc nhiên và không ít bức xúc. Bởi với kết quả xét nghiệm tại Mỹ, khối u trong gan không hề ảnh hưởng đến sức khoẻ anh Lộc, và việc đốt bỏ là không cần thiết.
Bên cạnh đó, hồ sơ bệnh án tại Singapore có thực hiện xét nghiệm sinh thiết gan, nhưng không cung cấp kết quả sinh thiết gan, rồi đưa anh Lộc vào tiến trình đốt khối u, và khiến anh bị thủng ruột, dẫn đến các hệ quả nghiêm trọng khác.
Mặc dù hậu quả thủng ruột do chính quá trình đốt khối u trong gan, bị các bác sĩ tại Bệnh viện Mount Elizabeth gây ra, thế nhưng, anh Lộc đã bị bỏ mặc trong nhiều tháng trời và bệnh viện vẫn không nhận trách nhiệm với việc điều trị sai của mình.
Anh Lộc cho biết, hiện nay, anh hầu như không thể làm việc được, bởi những cơn đau nhức ở vùng bụng vẫn thường xuyên hành hạ. Nhiều hợp đồng kinh tế giữa công ty do anh làm chủ với đối tác nước ngoài đã bị huỷ, do anh không đủ sức khoẻ để điều hành công việc, không thể thực hiện hợp đồng.
“Đến giờ tôi mới hối hận vì bệnh sính ngoại. Nếu khi phát hiện khối u, tôi bình tĩnh hơn thì giờ này, chẳng phải ôm cái thân tàn này rồi!”, anh Lộc đau đớn nói.

Phan Công

Thứ Tư, 3 tháng 9, 2008

NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ KHÁNG THUỐC CỦA VIÊM GAN SIÊU VI B

ĐỊNH NGHĨA SỰ KHÔNG ĐÁP ỨNG NGUYÊN PHÁT VỚI NUCLEOS(T)IDES (NA) : Lamivudin, Adefovir, Entecavir, Tenofovir,...

AASLD[1]: Giảm HBV DNA < 2 log10 IU/mL sau ít nhất 24 tuần điều trị.
Những định nghĩa khác:
NIH HBV workshop[2]: HBV DNA không giảm ≥ 1 log10 IU/mL sau 6 tháng điều trị với NA.
HBV roadmap[3]: HBV DNA không giảm > log10 IU/mL hoặc hơn tại tuần thứ 12.


NHỮNG THUẬT NGỮ KHÁNG THUỐC

-Virologic breakthrough: Tăng HBV DNA > 1 log10 (10-fold) giới hạn trên sau khi đạt được đáp ứng vi rút và đang trong quá trình điều trị.
-Viral rebound: Tăng HBV DNA > 20,000 IU/mL hoặc trên mức trước khi điều trị sau khi đạt được đáp ứng vi rút và đang trong quá trình điều trị.
-Biochemical breakthrough: Tăng ALT trên mức giới hạn trên bình thường sau khi đạt được ALT bình thường và đang trong quá trình điều trị.
-Genotypic resistance: Sự phát hiện những đột biến trong invitro kháng với Nucleos(t)ides (NA)
-Phenotypic resistance: Trong in vitro xác nhận đột biến được phát hiện làm giảm sự nhạy cảm với Nucleos(t)ides(NA).

KIỂM SÓAT SỰ ĐÁP ỨNG TRONG ĐIỀU TRỊ VGSV B MẠN TÍNH

Tuần 12: Đánh giá không đáp ứng nguyên phát

Tuần 24: Dự đóan sớm của hiệu quả điều trị, bệnh nhân có:

-Đáp ứng hòan tòan

HBV DNA (-) : Tiếp tục, theo dõi mỗi 6 tháng

-Đáp ứng một phần

HBV DNA từ 60 đến < 2000 IU/mL : Thêm vào một thuốc mạnh có hiệu quả và theo dõi mỗi ba tháng.

-Không đáp ứng

HBV DNA ≥ 2000 IU/mL: Thêm vào một thuốc mạnh có hiệu quả và theo dõi mỗi 3 tháng.



KiỂM SÓAT VIROLOGIC BREAKTHROUGH

*Lựa chọn –“chuyển ” thuốc khác
–“thêm vào” một thuốc khác
–“chuyển” và “thêm vào” một thuốc khác
*Chọn thuốc thứ hai ít kháng chéo hơn

ĐỔI THUỐC KHÁC SO VỚI THÊM VÀO MỘT THUỐC MỚI Ở BỆNH NHÂN KHÔNG ĐÁP ỨNG

*2007 AASLD :
–Những bệnh nhân không đáp ứng có nghĩa là không giảm HBV DNA được hơn 2 log sau ít nhất 6 tháng điều trị với Nucleos(t)ides(NA) thì nên đổi thuốc khác.

*NIH Clinical Research Workshop:
–Không có số liệu nào cho thấy điều trị hai NA thì ức chế HBV tốt hơn là với mộtNucleos(t)ides(NA).
–Mức độ ức chế HBV của hai NA cũng bằng với một Nucleos(t)ides(NA) có hiệu quả.
–Những bằng chứng hiện nay không ủng hộ kết hợp hai NA cho điều trị viêm gan siêu vi B mạn tính.

*Ngọai trừ trường hợp kháng với Lamivudin:
–Adefovir + lamivudine xem ra thích hợp hơn với chỉ với một mình adefovir

Đề kháng - Điều trị cứu nguy

Lamivudine: Thêm adefovir (tốt hơn là đổi adefovir)
Đổi entecavir (tăng nguy cơ kháng entecavir)
Thêm tenofovir* hoặc đổi emtricitabine/tenofovir*

Adefovir: Thêm lamivudine (tốt hơn là đổi lamivudine)
Đổi hoặc thêm entecavir (chỉ khi không có đề kháng lamivudine)
Đổi emtricitabine/tenofovir*

Entecavir: Thêm hoặc đổi adefovir or tenofovir*

Telbivudine: Thêm adefovir (tốt hơn là đổi adefovir )
Đổi entecavir (tăng nguy cơ kháng entecavir)
Thêm tenofovir* hoặc đổi emtricitabine/tenofovir*

Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ : 0973332733

ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI B MẠN TÍNH

NHỮNG THUỐC ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI B MẠN TÍNH

•Interferon alfa-2b
•Lamivudine
•Adefovir
•Entecavir
•Peginterferon alfa-2a
•Telbivudine
*Tenofovir

MỤC TIÊU ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI B MẠN TÍNH

Mục tiêu đầu tiên: ức chế HBV DNA tới mức thấp nhất có thể để :
–Ngăn ngừa bệnh gan diễn tiến đến xơ gan.
–Ngăn ngừa suy gan và ung thư tế bào gan (HCC).
–Ngăn ngừa bệnh gan liên quan đến ghép gan hoặc chết.
Ức chế HBV DNA đưa đến:
–Cải thiện mô học.
–Bình thường hóa men gan ALT.
–Mất HBeAg và chuyển huyết thanh.
–Mất HBsAg và chuyển huyết thanh.

ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN VIÊM GAN B MẠN CÓ HBeAg (+)

Hướng dẫn của AASLD 2007
• Những bệnh nhân nào phải điều trị?
– Những bệnh nhân có HBV DNA > 20,000 IU/mL và ALT > 2 x ULN*
• Bắt đầu điều trị sau 3-6 tháng theo dõi nếu không có chuyển đổi huyết thanh HBeAg tự nhiên.
– Sinh thết gan nếu bệnh nhân > 40 tuổi, ALT 1-2 x ULN,hoặc trong gia đình có người bị HCC
• Điều trị nếu có viêm trung bình hoặc nặng, có xơ hóa

THUỐC ĐỀ NGHỊ:
– Adefovir, entecavir, hoặc peginterferon alfa-2a

(*ULN = 30 IU/mL cho nam, 19 IU/mL cho nữ.)

ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN VIÊM GAN B MẠN CÓ HBeAg (-)

Hướng dẫn của AASLD 2007
• Những bệnh nhân nào phải điều trị?
– Những bệnh nhân có HBV DNA > 20,000 IU/mL và ALT > 2 x ULN*
– Những bệnh nhân có HBV DNA ≥ 2000 IU/mL và ALT 1-2 x ULN: thì sinh thết gan và điều trị nếu cần thiết.
• Các thuốc đề nghị chọn:
–Adefovir, entecavir, hoặc peginterferon alfa-2a
• Thời gian điều trị:
–Peginterferon cho 1 năm
–Lâu dài cho các thuốc uống.

ĐIỀU TRỊ CHO NHỮNG BỆNH NHÂN XƠ GAN SAU VGSV B MẠN

Xơ gan còn bù
• Những bệnh nhân nào cần điều trị?
– Có HBeAg (+) hoặc (-)
– Nếu có HBV DNA > 2000 IU/mL; không quan tân đến men gan ALT.
– Nếu có HBV DNA < 2000 IU/mL; điều trị nếu ALT tăng.
– Nếu có HBV DNA (-); theo dõi.
• Các thuốc lựa chọn
–Adefovir or entecavir

Xơ gan mất bù
Những bệnh nhân nào cần điều trị?
- Có HBeAg (+) hoặc (-)
- Nồng độ HBV DNA bất kỳ .
Các thuốc lựa chọn
Lamivudine hoặc telbivudine+Adefovir, hoặc entecavir đơn trị liệu.

THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI B MẠN TÍNH

HBeAg (+)
–6-12 tháng sau khi có chuyển huyết thanh HBeAg để hạn chế thấp nhất tỉ lệ tái phát.
HBeAg (-)
–Tái phát thường xảy ra sau khi ngưng điều trị.
–Cho đến nay điều trị lâu dài thì được đề nghị.
Xơ gan
–Điều trị lâu dài
–Kết hợp điều trị thì thường được sử dụng

Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ : 0973332733

Thứ Năm, 10 tháng 7, 2008

THEO DÕI BỆNH NHÂN GHÉP GAN

Tổng Quan1- Thời gian nằm viện thường từ 7-14 ngày ở người lớn, 10-20 ngày ở trẻ em ghép gan.
2- Một bệnh nhân xuất viện cần được cung cấp thêm dinh dưỡng, thuốc kháng sinh, thuốc kháng siêu vi,.
3- Bệnh nhân thường được yêu cầu ở lại gần trung tâm ghép gan trong 2-6 tuần sau ghép để theo dõi chặt chẽ chức năng gan và thuốc ức chế miễn dịch.

THĂM KHÁM BỆNH NHÂN NGỌAI TRÚ VÀ LÀM CÁC XÉT NGHIỆM
1- Khám lại bệnh nhân 2 lần trong tuần đầu, sau đó mỗi tuần cho tháng đầu tiên, và ít thường xuyên hơn sau đó.
2- Bệnh nhân tại nhà thì bác sĩ cần chú ý:
+ Thăm hỏi để tầm sóat triệu chứng
+ Đánh giá sự tuân thủ dung thuốc của bệnh nhân
+ Khám lâm sàng
+ làm xét nghiệm: Công thức máu, sinh hóa máu, đo nồng độ của thuốc ức chế miễn dịch.

SỬ DỤNG THUỐC ỨC CHẾ MIỄN DỊCH VÀ THEO DÕI

1- Theo dõi nồng độ của thuốc ức chế miễn dịch để theo dõi bệnh nhân và tác dụng phụ của thuốc.
2- Những hướng dẫn theo dõi và dùng thuốc ức chế miễn dịch có thể khác nhau một ít ở các trung tâm khác nhau, nhưng nguyên tắc chung thì vẫn tương tự nhau.
3- Hai thuốc ức chế miễn dịch sử dụng trong ghép gan là cyclosporine hoặc tacrolimus, kết hợp với prednisone.+ Tacrolimus được đóng gói viên nhộng 0.5mg, 1mg, hoặc 5mg và dung dịch 5mg/mL.
+ Mặc dù khác nhau nhưng cyclosporine và tacrolimus có nhiều dược lý học giống nhau, ức chế ban đầu sự họat hóa tế bào lympho T.
+ Có hai nghiên cứu lớn ở Mỹ và Châu âu so sánh sử dụng cyclosporine và tacrolimus thì tỷ lệ sống còn ở bệnh nhân ghép gan như nhau.
+ Tác dụng phụ chủ yếu của tacrolimus là độc thần kinh và độc thận; những tác dụng phụ khác bao gồm : tăng kali máu, tăng đường huyết, tăng huyết áp, buồn nôn, nôn hoặc tiêu chảy.
+ Rối lọan tăng sinh lympho, cũng xảy ra ở những bệnh nhân sử dụng cyclosporine và các thuốc ức chế miễn dịch khác.
4- Azathioprine được sử dụng khi giảm liều cyclosporine hoặc prednisone để giảm tác dụng phụ của các thuốc này, ví dụ như độc thận, nhưng hiếm khi cần thiết với tacrolimus.
5- Mycophenylate mofetil là một thuốc mới, ức chế ngược inosine monophosphate dehydrogenase; 2g/ngày chia thành nhiều lần; tác dụng phụ thường gặp nhất là triệu chứng dạ dày ruột, giảm bạch cầu; thay thế azathioprine để giảm liều của cyclosporine, hoặc tacrolimus, và prednisone, điều trị kháng thải ghép.
6- Prednisone có thể ngưng ở nhiều bệnh nhân điều trị với tacrolimus. Tuy nhiên ngưng prednisone ở những bệnh nhân điều trị với cyclosporine thì thường dẫn đến thải ghép.
7- Rapamycin là một thuốc ức chế miễn dịch mới khác tương tự với tacrolimus, nhưng không gây độc thận, sử dụng để giảm liều của cyclosporine hoặc tacrolimus giống như prednisone; tác dụng phụ bao gồm tăng lipide máu, giảm tiểu cầu , bạch cầu.

Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ : 0973332733

NHỮNG BIẾN CHỨNG SAU GHÉP GAN

Tổng Quan
1- Những biến chứng sau ghép gan có thể sớm hoặc muộn.
2- Những biến chứng sớm liên quan với phẫu thuật, thải ghép, nhiễm trùng, hoặc do nhiễm độc thuốc. Những biến chứng liên quan tới phẫu thuật là thuyêntắc động mạch gan, hoặc tĩnh mạch cửa, tắc mật.
3- Những biến chứng muộn sau ghép gan bao gồm thải ghép, nhiễm trùng, những biến chứng do dùng thuốc ức chế miễn dịch, và tái phát bệnh cũ.

THẢI GHÉP CẤP
1- Thải ghép cấp tính xảy ra ở 40-70% bệnh nhân trong 1-2 tháng đầu sau ghép; tỷ lệ này giãm xuống khi bắt đầu có tacrolimus.
2- Do tần suất thải ghép cấp tính giảm, thời gian nằm viện giảm nên giá thành của ghép gan cũng giảm.

NHIỄM TRÙNG Ở BỆNH NHÂN GHÉP GAN
1- Nhiễm trùng ở giai đọan sớm sau ghép thường gặp nhất là vi trùng, vi rút, thường viêm gan do cytomegalovirus , nhưng nhiễm Epstein-Barr virus, HBV và HCV cũng có thể xảy ra.
2- Chẩn đóan nhiễn trùng có thể được xác định với xét nghiệm PCR khi nghi ngờ nhiễm virus và sinh thiết gan với nhuộm màu thích hợp nếu có thể cho phép.

NHIỄM ĐỘC DO THUỐC ỨC CHẾ MIỄN DỊCH
1- Thuốc (cyclosporine hoặc tacrolimus) gây độc tính trên thần kinh và thận, có thể cải thiện bằng cách điều chỉnh liều thuốc ức chế miễn dịch phù hợp.
2- Nhiễm đôc khác bao gồm : tăng huyết áp, tăng lipide máu, bệnh rối lọan chuyển hóa xương và tiểu đường.
3- Thuốc ức chế miễn dịch thì giảm từ từ trong suốt năm đầu sau ghép, làm giảm thiểu nhiễm độc do thuốc.

NHỮNG BIẾN CHỨNG ĐƯỜNG MẬT SAU GHÉP GAN
1- Tắc miệng nối thường tiến triển theo thời gian và khó khăn để làm dãn dưới hướng dẫn của XQ, thường thì phải phẫu thuật sửa lại chỗ nối.
2- Tắc đường mật trong gan thường sau thiếu máu, thời gian bảo quản quá dài, bất đồng nhóm máu ABO, hoặc do thải ghép mạn tính. Tắc mật này diễn tiến theo thời gian và có thể đáp ứng với sự làm dãn và đặt stent, phu thuộc vào vị trí tắc. Chúng cũng có tể dẫn tới ghép lại do tắc mật mạn tính teo ống mật. Một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân cải thiện với thay thuốc ức chế miễn dịch cyclosporine sang tacrolimus.
3- Biến chứng của ống T có thể xảy ra khi rút ống(điển hình 3 tháng sau ghép) và bao gồm là dò mật và viêm phúc mạc. Những biến chứng này có thể kiểm sóat bằng kháng sinh, nội soi, phẫu thuật can thiệp. Hiện nay phẫu thuật nối ống mật không cần sử dụng ống T.
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ : 0973332733

GHÉP GAN Ở NHỮNG BỆNH NHÂN UNG THƯ TẾ BÀO GAN NGUYÊN PHÁT

GHÉP GAN Ở NHỮNG BỆNH NHÂN UNG THƯ TẾ BÀO GAN NGUYÊN PHÁT
(HEPATOCELLULAR CARCINOMA: HCC)

1- Hầu hết bệnh nhân ung thư tế bào gan đi kèm với xơ gan, đặc biệt xơ gan sau viêm gan siêu vi B, C mạn tính, bệnh gan do rượu, hoặc heochromatosis.
2- Chương trình sang lọc HCC không đầy đủ, và hầu hết bệnh nhân đã có triệu chứng của bệnh tiến triển( đau bụng, giảm cân, chán ăn, và báng bụng). Tại giai đọan này điều trị thuốc và phẫu thuật không còn hiệu quả.
3- Ghép gan là một lựa chọn điều trị cho những bệnh nhân có đầy đủ các tiêu chuẩn sau:
+ Khối u chỉ ở trong gan chưa di căn xa, được xác định bởi PET-CT bụng, ngực và chậu.
+ Xạ hình xương âm tính.
+ Không có bằng chứng huyết khối tĩnh mạch cửa ngòai gan.
4- Những yếu tố tiên lượng liên quan với tăng tỷ lệ sống còn sau ghép là:
+ Chỉ một khối u < 5 cm
+ Ít hơn 3 khối u, mỗi khối u < 3 cm
+ Không có u xâm lấn tĩnh mạch cửa (vi thể hoặc đại thể)
+ U ở một thùy
+ Không có hạch vùng.
5- Những bệnh nhân có đầy đủ các tiêu chuẩn trên thì tỷ lệ sống còn sau ghép dường như gần ngang bằng với những bệnh nhân ghép gan không do HCC.

Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ : 0973332733

Chủ Nhật, 6 tháng 7, 2008

GHÉP GAN Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN SIÊU B, C MẠN

GHÉP GAN Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN SIÊU B, C MẠN

TỔNG QUAN

1- Viên gan siêu vi là một trong những nguyên nhân thường gặp của bệnh gan giai đọan cuối, ghép gan được chỉ định trong những trường hợp này.
2- Nỗ lực ngăn ngừa tái phát viêm gan siêu vi B trong những trường hợp ghép gan đã mang lại thành công là cải thiện tỷ lệ sống còn ở những bệnh nhân này.
3- Không có một phác đồ điều trị kháng siêu vi hiệu quả nào để ngăn ngừa sự tái phát của viêm gan siêu vi C trong những người ghép gan sau hậu quả của viêm gan siêu vi C mạn, nhưng may mắn tái nhiễm không thường xuyên dẫn tới suy mảnh ghép và chết trong vòng 3-5 năm đầu ( khỏang 5-10% trường hợp)

GHÉP GAN CHO NHỮNG BỆNH NHÂN VIÊM GAN SIÊU VI B MẠN TÍNH

1- Những nghiên cứu từ đại học Pittsburgh cho thấy tỷ lệ sống lâu dài sau ghép gan giảm đi một cách rõ rệt ở những bệnh nhân có kháng nguyên bề mặt HBsAg dương tính so với những bệnh nhân có kháng nguyên bề mặt HBsAg âm tính (40% so với > 65% tại thời điểm 5 năm).

2- Bệnh nhân chết do tái phát HBV thì thường liên quan với xơ gan sau viêm gan siêu vi B mạn tính, nhưng cũng có thể do một hội chứng hiếm gặp nhưng chết nhanh sau ghép gọi là “ viêm gan xơ hóa ứ mật “.
3- Những yếu tố liên quan với tỷ lệ tái phát thấp hơn và cải thiện tỷ lệ sống còn ở những bệnh nhân ghép gan sau nhiễm HBV bao gồm:
- Vắng mặt hoặc sự nhân đôi thấp (HBV(-)/huyết thanh và/hoặc HBeAg(-)).
- Sử dụng HBIG (hepatic B immune globulin) phòng ngừa lâu dài và/hoặc Lamividine sau ghép gan.
- Nhiễm HBV tối cấp.
- Đồng nhiễm vi rút viêm gan D.
4- Trước khi có sử dụng HBIG , tỷ lệ tái phát HBV sau ghép vào khỏang 70%-90%. Bây giờ sử dụng HBIG trước, trong và sau ghép thì giảm tỷ lệ tái phát HBV từ 10-40% và cải thiện tỷ lệ sống kéo dài.
5- Một vài nghiên cứu cho thấy sử dụng HBIG và Lamivudine phòng ngừa có thể giảm nhiều hơn nữa tỷ lệ tái phát HBV(từ 5-10%), cho phép sử dụng liều thấp của HBIG và đưa ra liều thay đổi trong việc sử dụng globulin miễn dịch rộng hơn và kinh tế hơn.
6- Điếu trị kháng siêu vi trước ghép gan với lamivudine hoặc adefovir dipivoxil để thải lại vi rút và HBeAg đang được nghiên cứu, khi bệnh nhân không có sự nhân đôi của vi rút thì có tỷ lệ tái phát HBV sau ghép gan thấp hơn, sử dụng interferon trước ghép gan thì ít dung nạp và có thể dẫn tới bệnh gan mất bù.
7- Tái phát HBV sau ghép gan có thể cải thiện với giảm liều ức chế miễn dịch và điều trị với lamivudin hoặc aefovir dipivoxil.
8- Ghép lại ở những bệnh nhân tái phát HBV có thể thành công với sử dụng HBIG liều cao và điều trị kháng vi rút.
9- Nếu sử dụng HBIG, tỷ lệ sống 5 năm ở bệnh nhân ghép gan sau viêm gan siêu vi B mạn ngang bằng với những bệnh nhân ghép gan do những nguyên nhân khác.

  • Cách sử dụng HBIG trong bệnh nhân ghép gan sau viêm gan siêu vi BHBIG 10 000 IU i.v trong khi ghép
    HBIG 10 000 IU i.v mỗi ngày trong 6 ngày liên tục, sau đó
    HBIG 10 000 IU mỗi tháng sau đó để duy trì anti-HBs > 150 mIU/mL .

GHÉP GAN CHO NHỮNG BỆNH NHÂN VIÊM GAN SIÊU VI C MẠN TÍNH

1- Viêm gan siêu vi C mạn tính thường gặp của viêm gan siêu vi mạn tính.
2- Xơ gan sau viêm gan siêu vi C mạn tính là một trong những nguyên nhân của chỉ định ghép gan ở người lớn.Chiếm tỷ lệ vào khỏang 40-60% bệnh nhân ghép gan ở vài trung tâm.
3- Tỷ lệ sống 3-5 năm sau ghép gan ở bệnh nhân sau viêm gan C mạn tính là 80-85%, tuy nhiên so sánh với những nguyên nhân khác thì tỷ lệ sống trên 7 năm thì thấp hơn.
4- Tiên lượng sau ghép có ảnh hưởng bởi tình trạng bệnh kèm theo như suy thận sau viêm cầu thận mạn tính, cryoglubulinemia, hoặc ung thư tế bào gan(HCC).
5- Tái phát HCV sau ghép thì gần như tòan bộ, 50% hoặc hơn sẽ có biểu hiện viêm gan trên mô học và lâm sàng, tình trạng này có thể đáp ứng với giảm ức chế miễn dịch, điều trị kháng siêu vi hoặc cả hai.
6- Xơ gan ở những người ghép gan xuất hiện ở khỏang 10-30% sau 5 năm.
7- Tuổi người cho, mức độ ức chế miễn dịch, nồng độ siêu vi trước, hoặc giai đọan sớm sau ghép, thời gian tái phát, tình trạng mô học ảnh hưởng lên kết quả của nhiễm HCV sau ghép.
8- Tái phát HCV ở người ghép hiếm khi là dạng viêm gan thể tấn công mà có thể thải mảnh ghép nhanh và chết.
9- Tái phát HCV tăng ở nhóm bệnh nhân ghép gan này.
10- Ghép lại cho những bệnh nhân suy mảnh ghép thứ phát do tái phát HCV còn đang tranh luận và liên quan với tỷ lệ sống còn thấp( khỏang 40% sau một năm)

Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ : 0973332733

Thứ Năm, 7 tháng 2, 2008

Bệnh viêm gan vi rút C và vật dụng cá nhân

Bệnh viêm gan vi rút C và vật dụng cá nhân

Bệnh viêm gan vi rút C lây truyền qua sự tiếp xúc trực tiếp từ máu qua máu. Rất nhiều người lo lắng về việc bị lây bệnh hay lây bệnh cho những người đang sống chung. Những vật dụng cá nhân như dao cạo râu, bàn chải đánh răng, cắt móng tay ... có thể lây truyền vi rút viêm gan C. Vì thế cần cẩn thận :
  1. Bạn hãy bao tất cả bàn chải đánh răng, cắt móng tay, hay bất kỳ vật dụng nào mà có thể dính máu trên đó, ngay cả khi không nhìn thấy máu.
  2. Hãy giữ những vật dụng vệ sinh cá nhân riêng biệt ra.

Bệnh viêm gan vi rút C và tình dục

Mặc dù biết vi rút viêm gan C ít có khả năng(chứ không phải không có, nó sẽ lây qua các vết trầy xước ở niêm mạc cơ quan sinh dục của cả hai người) lây qua đường quan hệ tình dục nhưng chúng ta cần cẩn thận trong quan hệ tình dục và điều tốt nhất là nên mang bao cao su để tránh lây nhiễm các loại bệnh lây qua đường tình dục, kể cả vi rút viêm gan C.

Bệnh viêm gan vi rút C và hệ thống miễn dịch

Cơ thể của bạn có hệ thống miễn dịch được ví như hệ thống phòng thủ có nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe của bạn. Hệ thống này chống lại những vật lạ xâm nhập cơ thể của bạn, ví dụ như vi trùng, vi rút... Công việc của hệ thống này là tìm và diệt những vật lạ này. Nếu không có hệ thống này thì bạn luôn bị tấn công bởi các vật lạ ngoài cơ thể, điều này có thể làm bạn bị bệnh hoặc chết.
Khi bạn bị nhiễm vi rút viêm gan C, thì hệ thống miễn dịch của bạn được khởi động và bằng mọi cách để loại trừ vi rút này ra khỏi cơ thể bạn và thật không may chỉ khoảng 1-2 ngưởi trong 10 người bị nhiễm vi rút này có hệ thống miễn dịch đủ mạnh để lại trừ vi rút C này ra khỏi cơ thể của họ, còn 8-9 người còn lại là mang trong người vi rút này mạn tính. Lúc này hệ thống miễn dịch tạo ra kháng thể gọi là Anti-HCV, nhưng kháng thể này không có tính chất bảo vệ cơ thể bạn khỏi bị nhiễm lại vi rút này một lần nữa mà kháng thể này chỉ mang ý nghĩa phát hiện bạn đã bị nhiễm loại vi rút này. Như vậy 8-9 người còn lại này sẽ trở thành người có mang vi rút C mạn tính, vì thế cần chú ý đừng làm hệ thống miễn dịch yếu thêm, bạn có thể tăng cường sức mạnh cho hệ thống này bằng cách:

  • Ăn thức ăn giàu dinh dưỡng (tránh các loại đã đề cập trong phần bệnh VGVRC và ăn uống)
  • Không uống rượu và các loại thuốc kích thích

  • Ngủ và nghỉ ngơi đầy đủ

  • Tập thể dục mỗi ngày

  • Tránh bị stress

  • Tiêm ngừa viêm gan vi rút A và B

Thứ Tư, 30 tháng 1, 2008

Phòng ngừa bệnh viêm gan vi rút C

Bênh viêm gan vi rút C lây qua sự tiếp xúc trực tiếp của máu qua máu.
Để có thể phòng ngừa lây bệnh bạn nên :
  • Không dùng chung mũi kim hay những vật dụng để tiêm
  • Không dùng chung bất kỳ vật dụng vệ sinh cá nhân nào chẳng hạn như dao cạo râu, bàn chải răng, cắt móng tay, hay những vòng xỏ tai
  • Khi xăm mình, hay xỏ lỗ tai hay những lỗ bất kỳ trên cơ thể bạn phải dùng kim mới và bình mực mới
  • Đậy hay băng kín những vết cắt hay vết thương mở miệng
  • Truyền qua đường tình dục thì thấp, nếu có bảo vệ thì giúp sự rủi ro mắc bệnh được giảm nhiều hơn
  • Khi được chăm sóc về mặt y tế như tiêm chích, làm các thủ thuật , mổ, hay làm răng phải được phòng ngừa an toàn theo tiêu chuẩn chống nhiễm khuẩn
Vi rút viêm gan C không lây qua:
  • Hắt hơi
  • Hơi thở
  • Ôm nhau
  • Hôn nhau
  • Cho con bú
  • Dùng chung dao nĩa, chén đũa, ly nước uống
  • Đụng chạm sơ sài