Pages

Thứ Bảy, 5 tháng 11, 2011

PHỐI HỢP CÁC LOẠI THUỐC UỐNG TRONG ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN B MẠN TÍNH

 Chọn lọc đột biến kháng thuốc là một quá trình đương nhiên và luôn luôn xảy ra dưới áp lực của hệ miễn dịch và thuốc trong quá trình điều trị. Những đột biến kháng thuốc được lưu trữ và có thể làm cho sự lựa chọn điều trị trong tương lai khó khăn hơn, trong một số đột biến kháng thuốc có thể làm tăng nguy cơ ung thư gan, phòng ngừa xuất hiện đột biến kháng thuốc thì rất quan trọng cho hiệu quả điều trị lâu dài sau này. Vì vậy trong điều trị viêm gan siêu vi B mạn tính thì sự phối hợp thuốc, đặc biệt là sự phối hợp mà không có kháng chéo thì có thể trì hoãn hoặc ngăn chặn được sự xuất hiện của đột biến kháng thuốc. Ngoài ra phối hợp thuốc có thể đạt được tác dụng hiệp đồng hoặc hỗ trợ trong ức chế siêu vi so với đơn trị liệu với một thuốc. Các khía cạnh không mong muốn của phối hợp thuốc là  tăng chi phí điều trị và khả năng tuân thủ với điều trị có thể thấp hơn do số lượng thuốc, do sự phức tạp của phác đồ. Khả năng ảnh hưởng có hại của phối hợp thuốc có thể là tác dụng phụ nhiều hơn, giảm hiệu quả do sự cạnh tranh thuốc và nguy cơ kháng nhiều thuốc của siêu vi viêm gan B khi liệu pháp phối hợp thuốc không đủ sức ngăn chặn sự kháng thuốc. Liệu pháp phối hợp thuốc cho thấy giảm tỷ lệ kháng thuốc, ức chế HBV DNA mạnh hơn. Nhưng liệu pháp phối hợp chưa cho thấy có sự liên quan đến tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh  của HBeAg hoặc HBsAg so với đơn trị liệu. Việc sử dụng liệu pháp phối hợp được đề nghị trong các nhóm bệnh nhân cụ thể : những bệnh nhân xơ gan mất bù, những bệnh nhân đồng nhiễm HBV và HIV, những bệnh nhân đã ghép gan, và những bệnh nhân bị nhiễm siêu vi đã kháng thuốc. Nhưng khó khăn là làm sao biết được bệnh nhân bị nhiễm con siêu vi viêm gan B đã kháng thuốc. Chỉ còn một cách duy nhất là làm xét nghiệm tìm sự kháng thuốc trước khi điều trị, nếu phải làm xét nghiệm như vậy đối với từng cá nhân bệnh nhân có thể chẳng có vấn đề gì, nhưng với một cộng đồng, với một đất nước thì đó là một gánh nặng về chi phí.

Sự hợp lý của liệu pháp phối hợp thuốc

Đơn trị liệu viêm gan siêu vi B mạn tính hiện nay vẫn được chấp nhận, tuy nhiên liệu pháp phối  hợp có nhiều lợi thế hơn là đơn trị liệu và thấy là cần thiết trong nhiều bệnh nhiễm trùng mạn tính. Kết hợp các loại thuốc có thể đạt được tác dụng hiệp đồng hoặc hỗ trợ trong điều trị kháng siêu vi so với đơn trị liệu. Ví dụ như HBV DNA đạt được dưới ngưỡng phát hiện nhanh chóng có thể làm tăng tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh của HBeAg hoặc HBsAg hoặc cải thiện chức năng gan hoặc cải thiện mô học gan. Ngoài ra kết hợp các thuốc không kháng chéo có thể làm chậm hoặc ngăn ngừa xuất hiện những đột biến kháng thuốc. Sự xuất hiện những biến thể kháng thuốc sẽ làm giới hạn các lựa chọn điều trị trong tương lai và giảm thiểu sự xuất hiện các biến thể kháng thuốc là rất quan trọng cho sự thành công của điều trị.

Các liệu pháp phối hợp thuốc lý tưởng sẽ nhắm tới các vị trí khác nhau của quá trình sao chép HBV bằng cách sử dụng các thuốc không có kháng chéo. Hiện nay tất cả các loại thuốc uống đã được phê chuẩn cho điều trị viêm gan B đều nhắm đến polymerase của HBV, tuy có những khác biệt tác động lên chức năng của men polymerase của mỗi thuốc khác nhau(Xem bảng).

Bảng . Những chất giống nucleoside : Cấu trúc và hoạt tính ức chế polymerase.

Thuốc
Nhóm cấu trúc
Chức năng polymerase
Mồi
Kéo dài chuỗi (-)
Tổng hợp chuỗi
Lamivudine


L-nucleosides

+++

Telbivudine

+++

Clevudine
+
+++
++
Emtricitabine

+++

Entecavir
Deoxyguanosine  analogs
++
+++
++
Adefovir
Acyclic nucleotide phosphonate
++
+++

Tenofovir

+++




Kết hợp các loại thuốc cùng một cơ chế hoạt động có thể dẫn đến sự cản trở nhau của thuốc chứ không phải là tác động hiệp đồng , hoặc gây ra các hiệu ứng bất lợi khác. Tất cả các chất tương tự nucleoside(bao gồm Lamivudine, Telbivudine, Clevudine, Emtricitabine, Entecavir, Tenofovir…) đều ức chế sự kéo dài chuỗi DNA âm của siêu vi. Adefovir dipivoxil, entecavir và clevudine ức chế đoạn mồi của men phiên mã ngược(reverse transcription), clevudine và entecavir ức chế tổng hợp chuỗi DNA dương[1-5]. Tuy nhiên các thuốc giống nucleoside có cơ chế hoạt động rất giống nhau, vì thế những thuốc có đích khác nhau, có cơ chế hoạt động khác nhau nên phối hợp với nhau.

Việc sử dụng liệu pháp phối hợp được khuyến khích trong các nhóm bệnh nhân cụ thể : bệnh nhân bị xơ gan mất bù, bệnh nhân bị đồng nhiễm HBV và HIV, những người đã ghép gan và những người nhiễm HBV kháng thuốc.

Phối hợp các loại thuốc cần phải có dữ liệu kháng thuốc. Sự chọn lọc các đột biến kháng thuốc xảy ra với tất cả các chất tương tự nucleoside(bao gồm Lamivudine, Telbivudine, Clevudine, Emtricitabine, Entecavir, Tenofovir…) với mức độ nhiều hay ít. Các chất tương tự nucleoside được chấp nhận cho điều trị viêm gan B mạn tính được chia vào ba nhóm tùy theo cấu trúc và kiểu kháng thuốc. L-nucleosides bao gồm lamivudine, emtricitabine, telbivudine và clevudine; các phosphonates nucleoside mạch hở bao gồm tenofovir và adefovir; và các chất tương tự deoxyguanosine bao gồm entecavir[6]. Khi siêu vi kháng với một thuốc thì ít nhất cũng kháng với một thuốc khác cùng nhóm và có thể làm giảm độ nhạy cảm với các chất tương tự nucleoside các nhóm khác. Những nghiên cứu sử dụng kết hợp các thuốc cùng nhóm L-nucleosides đã không cho thấy thành công về hiệu quả kháng siêu ci hoặc phòng ngừa kháng thuốc[7,8].

Liệu pháp phối hợp các chất giống nucleotide(Lamivudine, Telbivudine, Clevudine, Emtricitabine, Entecavir, Tenofovir…)

Những thử nghiệm có kiểm soát đã được công bố so sánh phối hợp những chất giống với một nucleoside khác trong những bệnh nhân viêm gan B mới điều trị với một số lượng bệnh nhân ít và chủ yếu là các thuốc mà từ lâu không còn là thuốc lựa chọn đầu tay trong điều trị bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính[9,10,11]. Tuy nhiên những thử nghiệm này cho thấy hiệu quả kháng siêu vi tăng thêm hoặc hiệp đồng của liệu pháp phối hợp thuốc so với đơn trị liệu. Một tỷ lệ lớn hơn những bệnh nhân dùng liệu pháp phối hợp đạt được ức chế HBV DNA lâu dài có tỷ lệ siêu vi “xuyên thủng”(virological breakthrough) thấp hơn so với đơn trị liệu. Ví dụ, trong một nghiên cứu những bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính HBeAg(+), chỉ có 17% bệnh nhân điều trị với lamivudine phối hợp với adefovir xuất hiện kháng genotype sau 2 năm so với 43% bệnh nhân chỉ điều trị với một mình lamivudine[9]. Trong một nghiên cứu với những bệnh nhân đồng nhiễm HBV và HIV nhận ngẫu nhiên lamivudine, tenofovir, hoặc kết hợp cả hai, kháng genotype chưa phát hiện ở nhóm điều trị với tenofovir và nhóm phối hợp thuốc sau 1 năm điều trị, nhưng đã phát hiện 15% ở những bệnh nhân đơn trị liệu với lamivudine[10]. Ngược lại kết hợp lamivudine với telbivudine không thấy hiệu quả làm giảm nguy cơ kháng genotype[7], điều này nhấn mạnh đến sự kết hợp thuốc có kiểu đề kháng thuốc khác nhau.

Nói chung có hiệu quả ức chế siêu vi mạnh, có tác dụng hiệp đồng và giảm tỷ lệ kháng thuốc khi phối hợp các thuốc nucleoside khác nhóm.

Như vậy để giảm được nguy cơ kháng thuốc thì nên điều trị phối hợp các thuốc giống nucleoside khác nhóm hơn là điều trị tuần tự từng thuốc một (step by step).
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ : 0973332733

Tài liệu tham khảo

 1. Pawlotsky JM. Virology of hepatitis B and C viruses and antiviral targets.

J Hepatol 2006;44(1 Suppl):S10-S13.

2. Yokota T, Mochizuki S, Konno K, Mori S, Shigeta S, De Clercq E. Inhibitory

effects of selected antiviral compounds on human hepatitis B virus

DNA synthesis. Antimicrob Agents Chemother 1991;35:394-397.

3. Seifer M, Hamatake RK, Colonno RJ, Standring DN. In vitro inhibition

of hepadnavirus polymerases by the triphosphates of BMS-200475 and

lobucavir. Antimicrob Agents Chemother 1998;42:3200-3208.

4. Seigneres B, Pichoud C, Martin P, Furman P, Trepo C, Zoulim F. Inhibitory

activity of dioxolane purine analogs on wild-type and lamivudineresistant

mutants of hepadnaviruses. HEPATOLOGY 2002;36:710-722.

5. Standring DN, Bridges EG, Placidi L, Faraj A, Loi AG, Pierra C, et al.

Antiviral beta-L-nucleosides specific for hepatitis B virus infection. Antivir

Chem Chemother 2001;12(Suppl 1):119-129.

6. Shaw T, Bartholomeusz A, Locarnini S. HBV drug resistance: mechanisms,

detection and interpretation. J Hepatol 2006;44:593-606.

7. Lai CL, Leung N, Teo EK, Tong M, Wong F, Hann HW, et al. A 1-year

trial of telbivudine, lamivudine, and the combination in patients with

hepatitis B e antigen-positive chronic hepatitis B. Gastroenterology 2005;

129:528-536.

8. Lim SG, Krastev Z, Ng TM, Mechkov G, Kotzev IA, Chan S, et al.

Randomized, double-blind study of emtricitabine (FTC) plus clevudine

versus FTC alone in treatment of chronic hepatitis B. Antimicrob Agents

Chemother 2006;50:1642-1648.

9. Sung JJ, Lai JY, Zeuzem S, Chow WC, Heathcote EJ, Perrillo RP, et al.

Lamivudine compared with lamivudine and adefovir dipivoxil for the

treatment of HBeAg-positive chronic hepatitis B. J Hepatol 2008;48:728-

735.

10. Matthews GV, Avihingsanon A, Lewin SR, Amin J, Rerknimitr R, Petcharapirat

P, et al. A randomized trial of combination hepatitis B therapy

in HIV/HBV coinfected antiretroviral naive individuals in Thailand.

HEPATOLOGY 2008;48:1062-1069.

11. Hui CK, Zhang HY, Bowden S, Locarnini S, Luk JM, Leung KW, et al. 96

weeks combination of adefovir dipivoxil plus emtricitabine vs. adefovir

dipivoxil monotherapy in the treatment of chronic hepatitis B. J Hepatol

2008;48:714-720.