Pages

Thứ Năm, 20 tháng 10, 2011

HỎI ĐÁP VỀ VIÊM GAN SIÊU VI B KHI MANG THAI

Hỏi :Em bị viêm gan siêu vi B mạn tính, theo như lời bác sĩ tư vấn lần trước thì tình trạng bệnh của em chưa phải điều trị, em đã đi khám ở Chợ Rẩy và bệnh viện Vũ Anh thì các bác sĩ đều chưa cho em uống thuốc, và hiện tại bệnh đã được 3 năm nhưng em chưa điều trị bằng loại thuốc nào. Vậy với bệnh của em thì việc em có em bé có ảnh hưởng gì tới em và con em hay không?
Với tình trạng bệnh viện lúc nào cũng quá tải thì việc em có được một lời khuyên, tư vấn từ bác sĩ là rất khó.


 Đáp : Chào VA

Sắp làm mẹ rồi nhỉ, BS chúc mừng nhé. Sắp làm mẹ nên có nhiều lo lắng phải không? BS xin giải đáp thắc mắc nhé.

Ảnh hưởng của HBV trên thai kỳ : Tình trạng mang HBsAg ở mẹ mang thai có liên quan một cách có ý nghĩa với bệnh tiểu đường thai kỳ, xuất huyết trong thai kỳ, và dọa sanh non.
Ảnh hưởng của thai kỳ trên HBV: Số lượng vi rút dường như không thay đổi nhiều trong thời gian mang thai, nhưng nó có thể làm tăng lượng vi rút nhiều hơn 1 log ở 25% bà mẹ có HBeAg(-).

Lây truyền vi rút từ mẹ sang con ở người mẹ có HBeAg(+) thì khoảng 70-90% trong vòng 6 tháng đầu đời. còn đối với người mẹ HBeAg(-) thì chỉ 10%. Lây truyền từ mẹ sang bào thai có thể xảy ra trong tử cung, lúc sinh, hoặc sau sinh.

Nếu chích(tiêm) một mũi Hepatitis B immune globulin (HBIG) và một mũi vắc xin viêm gan B ngay sau khi sinh thì có thể giảm nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con chỉ còn ít hơn 10% .

Trường hợp của em thì đo lượng vi rút, xác nhận tình trạng HBeAg ở tuần thứ 28, nếu lượng HBV-DNA < 8log/mL(10 lũy thừa 8) thì theo dõi. Nếu HBV-DNA >8log/mL(10 lũy thừa 8) thì có thể xem xét điều trị bằng thuốc tenofovir hoặc lamivudine, hoặc telbivudine ở tuần thứ 32 để giảm nguy cơ lây cho con.

Chúc em may mắn ! 


Hỏi : Chào bác sĩ, em đã đọc mail của bác sĩ rồi, em cảm ơn bác sĩ đã hồi âm.

Em vừa đi khám thai ở bệnh viện Từ Dũ về, thai nhi khoảng 8 – 10 tuần tuổi, thử máu thì các bác sĩ ở Từ Dũ nói em nhiễm Rubela ở mức độ nhẹ. Em muốn hỏi bác sĩ một số câu hỏi sau, mong bác sĩ tư vấn giúp em với:

- Việc em bị nhiễm Rubela thì có ảnh hưởng gì đến em bé hay không bs? Em có đọc trên mạng nói rằng nhiễm Rubela ở tuần < 10 thì em bé sinh ra sẽ mắc dị tật, nhưng em thì có nhiễm Rubela nhưng chưa có biểu hiện của bệnh.

- HBeAg của em là dương tính, vậy em có thể cho con bú không bác sĩ? Khi con em sinh ra thì trong vòng 12 giờ chính ngừa HBV thì em bé có bị nhiễm bệnh không?

- Làm cách nào để phát hiện ra con em có bị nhiễm virut hay không khi em đang mang thai?

- Em uống thuốc bổ sung chất sắt có làm tăng tình trạng bệnh của em hay không? Và có ảnh hưởng gì đến em bé hay không?

- Khám và theo dõi tại bệnh viện Từ Dũ có đảm bảo sức khỏe cho 2 mẹ con em không?

- Bác sĩ có thể tư vấn em nơi theo dõi và điều trị dành cho bà mẹ mang thai nhiễm HBV như em được không?

- Bác sĩ có thể cho em số điện thoại để nếu cần em liên lạc được không? Mỗi lần đi khám ở các bệnh viện như Hòa Hảo, Chợ Rẫy thì các bác sĩ tư vấn cho em không rõ ràng nên em không biết bệnh của em phải theo dõi và điều trị như thế nào. Ở Trung tâm Hòa Hảo thì bác sĩ bảo em không cần uống thuốc gì hết, còn ở BV Chợ Rẫy thì cho em thuốc uống 6 tháng, nhưng em cũng không uống thuốc gì, chỉ ăn kiêng những thức ăn tránh ảnh hưởng tới gan thôi. Bây giờ thì em có em bé rồi, không ăn kiêng được như lúc trước vì phải ăn để nuôi em bé trong bụng nữa.

Hiện nay em đã về quê để dưỡng thai nhi (ở Buôn Mê Thuột), khoảng 1-2 tháng sau em lên lại Sài Gòn để khám thai.

Em mong bác sĩ hồi âm để em an tâm phần nào. Em cảm ơn bác sĩ.

Đáp : Chào VA!

Xin lỗi vì trả lời chậm.Bác sĩ sẽ trả lời từng câu hỏi một của VA nhé.
Hỏi : Việc em bị nhiễm Rubela thì có ảnh hưởng gì đến em bé hay không bác sĩ? Em có đọc trên mạng nói rằng nhiễm Rubela ở tuần < 10 thì em bé sinh ra sẽ mắc dị tật, nhưng em thì có nhiễm Rubela nhưng chưa có biểu hiện của bệnh.

Trả lời : Câu này ngoài chuyên nghành của BS nên BS không dám trả lời, VA hãy hỏi BS Sản khoa nhé.

Hỏi : HBeAg của em là dương tính, vậy em có thể cho con bú không bác sĩ? Khi con em sinh ra thì trong vòng 12 giờ chính ngừa HBV thì em bé có bị nhiễm bệnh không?

Trả lời : Theo hướng dẫn của Viện Nhi Khoa Hoa Kỳ thì không có chống chỉ định cho bú ở những đứa trẻ sinh ra từ mẹ có HBeAg(+) mà có chủng ngừa bằng HBIG và vắc xin viêm gan B. Chủng ngừa HBIG và vắc xin viêm gan B, bắt đầu ngay sau sinh, làm giảm nguy cơ lây truyền đến dưới 10% trong số trẻ sơ sinh ở những bà mẹ có HBsAg / HBeAg dương tính

Hỏi : Làm cách nào để phát hiện ra con em có bị nhiễm virut hay không khi em đang mang thai?

Trả lời : Lây nhiễm trong tử cung thì rất hiếm (<10%) nguy cơ chỉ xảy ra khi có dọa sinh non, mẹ bị viêm gan siêu vi B cấp ở ba tháng cuối thai kỳ và mẹ có nồng độ vi rút cao . Và không có cách nào để biết được bào thai đã bị nhiễm.

Hỏi : Em uống thuốc bổ sung chất sắt có làm tăng tình trạng bệnh của em hay không? Và có ảnh hưởng gì đến em bé hay không?

Trả lời : Sắt thừa thường được dữ trữ trong gan .Có bằng chứng rằng tăng nhẹ sắt có thể tăng mức độ tổn thương cho gan khi gan có bệnh.Nhưng gan của em hiện tại chưa bị tổn thương, em mới chỉ là người mang siêu vi mà thôi. Và em cũng nên biết trong thai kỳ lượng máu trong cơ thể tăng dần có khi trên mức bình thường 50%. Do đó em cần nhiều sắt hơn để tạo hemoglobin và cũng cần thêm sắt cho sự phát triển của thai nhi và bánh nhau. Đó là lí do tại sao nhu cầu sắt trong thai kỳ tăng lên từ 18–27 mg/ngày. Nếu chỉ dựa vào ăn uống đơn thuần thì khó mà đạt đủ lượng sắt cần thiết đó, nên cần bổ sung sắt ở ba tháng giữa và ba tháng cuối của thai kỳ.Như vậy uống viên sắt ở đây là bổ sung lượng sắt thiếu nên không dư sắt -> không ảnh hưởng đến gan của em.

Hỏi : Khám và theo dõi tại bệnh viện Từ Dũ có đảm bảo sức khỏe cho 2 mẹ con em không?

Trả lời : Bệnh viện Từ Dũ là bệnh viện chuyên khoa sản lâu đời và lớn nhất phía nam hiện nay chẳng lẽ em không tin sao? Con của bác sĩ cũng được sinh ở đó đấy.

Hỏi : Bác sĩ có thể tư vấn em nơi theo dõi và điều trị dành cho bà mẹ mang thai nhiễm HBV như em được không?

Trả lời : Thì bác sĩ đang tư vấn cho em đây thôi.

Hỏi : Em cũng đã khám ở BV Từ Dũ rồi, em bé khỏe mạnh và phát triển tốt em rất vui.Nhưng sau khi xem kết quả xét nghiệm, bác sĩ chỉ định là em không được cho em bé bú sữa mẹ vì HBeAg dương tính.
Nói đến HBeAg em có một thc mắc nữa muốn hỏi bác sĩ nữa. Bác sĩ trả lời giúp em nhé.
Như bác sĩ đã nói với em là em không cần uống thuốc điều trị gan vì “ em có mắc bệnh đâu mà phải điều trị”.Và như các bác sĩ khác thì nói em là “ người lành mang mầm bệnh”, và bác sĩ ở bệnh viện đa khoa quốc tế Vũ Anh thì nói là em không cần uống thuốc vì virus trong người em đang “ngủ yên”. Hôm nay em được biết HBeAg (+) là biểu hiện siêu vi B đang sinh sản theo phương cách tách đôi và là dấu hiệu cho thấy siêu vi đang tăng mạnh.
Vậy bác sĩ có thể cho em biết là đối với người nhiễm HBV mà có HBeAg( +) thì khả năng làm cho bệnh nặng hơn có cao hơn so với HBeAg( -) không? HBeAg ảnh hưởng trực tiếp đến bệnh HBV như thế nào? Bác sĩ trả lời giúp em nhé.
Cảm ơn bác sĩ nhiều và mong sớm nhận được câu trả lời của bác sĩ.

Đáp : Chào VA,

- Người mẹ mang thai có HBeAg(+) thì không nên cho con bú, vì có thể truyền vi rút viêm gan B cho con. Chỉ cho con bú khi em bé được chích(tiêm) HBIG và vắc xin viêm gan B ngay sau sinh.

-Em là "Người lành mang mầm bệnh", có nghĩa là có con vi rut ở trong người nhưng không gây hư hại gan.

-HBeAg là một thành phần của cấu trúc vi rút viêm gan B, khi HBeAg(+) chứng tỏ vi rút đang sinh sôi nảy nở nhiều. Còn ngược lại nếu HBeAg(-) thì có thể lượng vi rút trong máu thấp nếu là do có sự chuyển đổi huyết thanh, hoặc HBeAg(-) nhưng lượng vi rút trong máu vẫn cao là do có sự đột biến vi rút không biểu hiện được HBeAg.

-Nếu mà đã được chẩn đoán Viêm gan B mạn tính có HBeAg(-) thì thể này khó điều trị hơn, do con vi rút nó bị đột biến rồi, dễ kháng thuốc hơn.

Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ : 0973332733

ẢNH HƯỞNG CỦA MANG THAI TRÊN PHỤ NỮ NHIỄM SIÊU VI B MẠN TÍNH

Phần lớn phụ nữ nhiễm HBV mạn tính khi mang thai không làm trầm trọng hơn bệnh gan của họ. Tuy nhiên có một vài trường hợp viêm gan bùng phát xảy ra ở phụ nữ mang thai có nhiễm HBV đã được báo cáo[1,2]. Có một tỷ lệ phụ nữ bị viêm gan bùng phát xảy ra trong vòng một tháng sau sinh[3-5]. Và sử dụng lamivudine trong ba tháng cuối thai kỳ không  ngăn ngừa được viêm gan bùng phát sau sinh[3].  Trong một nghiên cứu gần đây ở Hà Lan cho thấy có tăng nồng độ của HBV DNA ở phụ nữ mang thai có nhiễm HBV mạn tính, nhưng giảm sau sinh. Nồng độ ALT giảm trong khi mang thai, nhưng sẽ tăng xảy ra ở 45% trường hợp trong vòng 6 tháng sau sinh[3]. Ngoài ra rối loạn chức năng gan sau sinh cũng được thấy ở 43% những người mẹ có HBeAg dương tính trong tổng số 269 phụ nữ mang thai có nhiễm HBV mạn tính ở Nhật[6]. Siêu vi viêm gan B là một siêu vi non-cytopathic và gây viêm gan chủ yếu là qua đáp ứng miễn dịch của người bệnh.Ở người mang siêu vi B mạn tính thì sự đáp ứng không đầy đủ của hệ miễn dịch đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của nhiễm mạn tính[7]. Trong thời gian mang thai thì hệ miễn dịch của mẹ có nhiều thay đổi để ngăn chặn sự loại bỏ thai nhi[8]. Một số yếu tố được sản xuất bởi tế bào nuôi phôi thai và mô tử cung của mẹ như CD95L(FAS ligand), indoleamine 2, 3-dioxynase và các yếu tố ức chế bạch cầu[3]. Ngoài ra còn có một sự thay đổi trong cân bằng tế bào T-helper 1 và T-helper 2 hướng tới đáp ứng của Th2 làm gia tăng số lượng tế bào T điều hòa[9]. Tế bào T điều hòa cũng đóng vai trò trong sự đáp ứng miễn dịch không đầy đủ chống lại siêu vi[10]. Sự gia tăng nhiều hơn tế bào T điều hòa giải thích sự dung nạp đối với siêu vi viêm gan B(HBV) được thấy thông qua tăng nhẹ số lượng HBV DNA và giảm ALT trong khi mang thai. Mặt khác khi mang thai thì có sự gia tăng của kích thích tố chẳng hạn như corticosteroid tuyến thượng thận, estrogen, và progesterone có thể có tác dụng ức chế miễn dịch [11] có thể làm tăng HBV DNA[12]. Nồng độ cortisol đạt đến đỉnh ở cuối thai kỳ và lúc sinh, với nồng độ cortisol huyết thanh trong suốt thai kỳ như vậy có thể so sánh với một người sử dụng prednisolone cho mục đích điều trị nào đó. Vì vậy, derstrom và các đồng nghiệp [13] thấy không có thay đổi trong nồng độ HBV DNA có ý nghĩa thống kê trong quá trình mang thai, mặc dù nồng độ HBV DNA có tăng hơn 1 log ở 25% những người  mẹ có HBeAg âm tính. Lin và các đồng nghiệp[14] cho rằng giảm đột ngột nồng độ cortisol ngay lập tức sau khi sinh được xem tương tự như trong điều trị mà ngưng steroid đột ngột. Tất cả những thay đổi này sẽ phục hồi sau sinh và hệ miễn dịch sẽ phục hồi đầy đủ chức năng của nó. Sự phục hồi miễn dịch này giải thích tại sao có một số lớn phụ nữ mang HBV mạn tính có tăng men gan ALT sau khi sinh[3]. Vì thế cần theo dõi chặt chẽ phụ nữ mang HBV mạn tính sau sinh để phát hiện tình trạng bùng phát viêm gan và chuyển đổi huyết thanh. Trong một nghiên cứu người ta thấy nếu người mẹ có nồng độ HBeAg thấp và HBV DNA thấp thì có liên quan chặt chẽ với tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh sau sinh[5].  Mặc dù chưa có nghiên cứu trên những đối tượng này, nhưng nếu có tình trạng bùng phát viêm gan sau sinh thì sử dụng thuốc nucleotides cũng thích hợp để ức chế siêu vi và cải thiện chức năng gan.

Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ : 0973332733

Tài liệu tham khảo
1. Mahtab MA, Rahman S, Khan M, Mamun AA, Afroz S. Etiology of fulminant hepatic failure: experience from a tertiary hospital in Bangladesh. Hepatobiliary Pancreat Dis Int 2008; 7: 161–4.
2.Yang YB, Li XM, Shi ZJ, Ma L. Pregnant woman with fulminant hepatic failure caused by hepatitis B virus infection: a case report. World J Gastroenterol 2004; 10:
3. ter Borg MJ, Leemans WF, de Man RA, Janssen HL. Exacerbation of chronic hepatitis B infection after delivery. J Viral Hepat 2008; 15: 37–41.
4. Lin HH, Chen PJ, Chen DS et al. Postpartum subsidence of hepatitis B viral replication in HBeAg-positive carrier mothers. J Med Virol 1989; 29: 1–6.
5. Lin HH, Wu WY, Kao JH et al. Hepatitis B post-partum e antigen clearance in hepatitis B carrier mothers: correlationwith viral characteristics. J Gastroenterol Hepatol 2006;21: 605–9.
6. Tagawa H, Suzuki K, Oh S et al. Influence of pregnancy on HB virus carriers (in Japanese). Nippon Sanka Fujinka Gakkai Zasshi 1987; 39: 24–30.
7. Chisari FV, Ferrari C. Hepatitis B virus immunopathogenesis. Annu Rev Immunol 1995; 13: 29–60.
8. Trowsdale J. Mother’s little helpers: mechanisms of maternal-fetal tolerance. Nat Immunol 2006; 7: 241–6.
9. Aluvihare VR, Kallikourdis M, Betz AG. Regulatory T cells mediate maternal tolerance to the fetus. Nat Immunol 2004; 5: 266–71.
10. Stoop JN, Van der Molen RG, Baan CC et al. Regulatory T cells contribute to the impaired immune response in patients with chronic hepatitis B virus infection. Hepatology 2005; 41: 771–8.
11. Lao TT, Chan BC, Leung WC, Ho LF, Tse KY. Maternal hepatitis B infection and gestational diabetes mellitus. J Hepatol 2007; 47: 46–50.
12. Tse KY, Ho LF, Lao T. The impact of maternal HBsAg carrier status on pregnancy outcomes: a case-control study. J Hepatol 2005; 43: 771–5.
13. Stevens CE, Beasley RP, Tsui J, Lee W-C. Vertical transmission of hepatitis B antigen in Taiwan. N Engl J Med 1975; 292: 771–4.
14. Stevens CE, Troy PT, Tong MJ et al. Perinatal hepatitis B virus transmission in the United States: prevention by passive–active immunization. JAMA 1985; 253: 1740–5.

Thứ Tư, 19 tháng 10, 2011

CẬP NHẬT HƯỚNG DẪN ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN C CỦA MỸ (AASLD)

Hiệp hội nghiên cứu bệnh gan của Mỹ (AASLD) đã cập nhật hướng dẫn cho việc điều trị bệnh viêm gan siêu vi C (HCV)kiểu gen(genotype) 1, cho thấy sự ra đời của các thuốc mới chống trực tiếp siêu vi (DAAs= Direct-Acting Antiviral Agents).

Hướng dẫn mới nhất, được công bố trong ấn bản tạp chí Hepatology  tháng mười năm 2011, cũng được chấp thuận bởi Hiệp hội các bệnh truyền nhiễm Mỹ (IDSA=Infectious Diseases Society of America), Hội tiêu hóa Mỹ (the American College of Gastroenterology), và Hội viêm gan siêu vi Mỹ (the National Viral Hepatitis Roundtable)
.

Việc phê
chuẩn 2 chất ức chế protease HCV đầu tiên, boceprevir (Victrelis) và telaprevir (Incivek), mở ra một phác đồ mới điều trị viêm gan siêu vi C. Những loại thuốc này và nhiều thuốc  nữa đang được phát triển là những thuốc nhắm vào các đích đặc hiệu trên vòng đời của siêu vi C. Hiện nay các thuốc này đang được sử dụng kết hợp với liệu pháp interferon(kích thích phản ứng của hệ miễn dịch chống lại HCV), nhưng những nghiên cứu để bỏ interferon, kết hợp tất cả các thuốc chống trực tiếp siêu vi (DAA)
đang được tiến hành.

 Hướng dẫn của Hiệp hội nghiên cứu bệnh gan Mỹ (AASLD) bao gồm phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị bệnh viêm gan siêu vi C mn tính, sau này tập trung vào HCV genotype 1, loại khá phổ biến và khó điều trị nhất. Họ cũng thảo luận về khả năng siêu vi kháng với các thuốc chống trực tiếp siêu vi (DAAs), kiểm soát các tác dụng phụ, và xem xét cho những nhóm bệnh nhân đặc biệt
.

 Phác đồ điều trị chuẩn cho
các bệnh nhân bị nhiễm siêu vi viêm gan C mạn tính peginterferon alfa (Pegasys hoặc PegIntron) cộng với ribavirin 48 tuần cho kiểu gen(genotype)1, 4, 5, 6, hoặc 24 tuần cho kiểu gen(genotype) 2 và 3. Tỷ lệ đáp ứng siêu vi kéo dài(SVR) - được coi là chữa khỏi,
trong khoảng 40% -50% cho kiểu gen 1 và khoảng 80% cho kiểu gen 2 và 3.
Đáp ứng siêu vi kéo dài làm giảm (và có thể đảo ngược một phần) tiến triển xơ gan và làm giảm nguy cơ xơ gan, ung thư biểu mô tế bào gan, ghép gan và tử vong
liên quan đến gan.

 Các tác giả dựa vào 2 tiến bộ lớn
đã làm thay đổi tối ưu cho việc điều trị kể từ khi phiên bản cuối cùng của hướng dẫn: đó là sự ra đời của các thuốc chống siêu vi trực tiếp(DAAs) và xác định các biến thể di truyền Interleukin 28B (IL28B) liên quan đến thải loại siêu vi
và đáp ứng điều trị được cải thiện.

 Mặc dù peginterferon và ribavirin vẫn là thành phần chính
trong phác đồ của điều trị, sự xuất hiện của thuốc chống siêu vi trực tiếp(DAAs) đã dẫn đến một cải tiến đáng kể trong tỷ lệ đáp ứng siêu vi kéo dài (SVR)có cơ hội giảm thời gian điều trị ở nhiều bệnh nhân viêm gan siêu vi C mạn tính với kiểu gen(genotype)
1.

 Ngoài
các chất ức chế men HCV protease như boceprevir và telaprevir, các loại thuốc chống siêu vi trực tiếp (DAAs) đang được nghiên cứu phát triển bao gồm các chất ức chế polymerase HCV và chất ức chế NS5A.
Các thuốc chống siêu vi trực tiếp này(DAAs) cho thấy khả năng mạnh hơn và ít bị kháng thuốc khi các loại thuốc này được kết hợp.

Các loại thuốc mới đòi hỏi phải sửa đổi hướng dẫn, đặc biệt là do tính chất ngày càng cá nhân hóa của việc điều trị viêm gan C, bao gồm sơ đồ hướng dẫn điều trị theo đáp ứng từng bước phức tạp của
boceprevir và telaprevir.

Boceprevir đã được phê chuẩn dựa trên dữ liệu quan trọng của nghiên cứu SPRINT-2 (ở những bệnh nhân trước đây không được điều trị) và RESPON-2 (ở những bệnh nhân không đáp ứng trước đó).
Telaprevir được phê chuẩn dựa trên các dữ liệu quan trọng đến từ nghiên cứu ADVANCE (ở những bệnh nhân trước đây không được điều trị) và nghiên cứu RELIZE (ở những bệnh nhân không đáp ứng trước đó).

Tuy nhiên các tác giả của hướng dẫn này nhấn mạnh, thông tin về cách sử dụng các thuốc mới này vẫn còn ít, đặc biệt là sử dụng trong thực hành lâm sàng
.

Hướng dẫn sửa đổi của Hiệp hội nghiên cứu bệnh gan của Mỹ(AASLD) khuyến nghị:


1.
Điều trị tối ưu cho bệnh nhân viêm gan siêu vi C có kiểu gen 1 boceprevir hoặc telaprevir kết hợp với peginterferon alfa và ribavirin.

2. Boceprevir và telaprevir không nên được sử dụng mà không peg
interferon alfa và ribavirin.

Đối với bệnh nhân điều trị
mới điều trị lần đầu:

3. Điều trị 4 tuần đầu với hai thuốc peginterferon alfa và ribavirin  sau đó thêm boceprevir với liều là 800 mg uống cùng với thức ăn 3 lần mỗi ngày (cách mỗi 7-9 tiếng) cùng với peginterferon alfa và ribavirin trong 24-44 tuần.

4. Bệnh nhân không có xơ gan được điều trị bằng boceprevir, peginterferon và ribavirin, những người không thể phát hiện được HCV RNA ở tuần 8 và 24 có thể được xem xét rút ngắn tổng thời gian điều trị 28 tuần(4 tuần đầu với peginterferon và ribavirin, sau đó điều trị tiếp tục 24 tuần với ba thuốc).

5. Điều trị nên được dừng lại với tất cả 3 loại thuốc, nếu HCV RNA > 100 IU / ml ở tuần điều trị thứ 12 hoặc HCV RNA phát hiện được tại thời điểm tuần thứ 24.


6. Liều khuyến cáo của telaprevir là 750 mg uống cùng với thức ăn, 3 lần mỗi ngày (cách mỗi 7-9 tiếng) cùng với peginterferon alfa và ribavirin trong 12 tuần, tiếp theo là thêm 12-36 tuần
với chỉ hai thuốc peginterferon alfa và ribavirin.

7. Bệnh nhân không có xơ gan được điều trị với telaprevir, peginterferon và ribavirin, những người
không thể phát hiện được HCV RNA ở tuần 4 và 12 cần được xem xét rút ngắn thời gian điều trị 24 tuần.

8.
Bệnh nhân bị xơ gan được điều trị bằng hoặc boceprevir hoặc telaprevir kết hợp với peginterferon và ribavirin nên được điều trị trong 48 tuần.

9. Điều trị với tất cả 3 loại thuốc (telaprevir, peginterferon và ribavirin) nên được dừng lại nếu HCV RNA > 1000 IU / mL tuần điều trị thứ 4 hoặc 12 và / hoặc phát hiện HCV RNA tại thời điểm tuần điều trị thứ
24.

Đối với bệnh nhân
đã từng trải qua điều trị:

10. Tái điều trị với boceprevir hoặc telaprevir, cùng với peginterferon alfa và ribavirin, có thể được khuyến cáo cho bệnh nhân tái phát hoặc đáp ứng một phần sau một liệu trình điều trị  interferon alfa hoặc peginterferon alfa và / hoặc ribavirin.

11.
Tái điều trị với telaprevir, cùng với peginterferon alfa và ribavirin, có thể được xem xét ở những bệnh nhân hoàn toàn không đáp ứng với liệu trình điều trị trước với  interferon alfa hoặc peginterferon alfa và / hoặc ribavirin.

12.
Điều trị theo đáp ứng cho các bệnh nhân đã từng điều trị với phác đồ điều trị có boceprevir hoặc telaprevir thì có thể được xem xét những bệnh nhân tái phát, có thể được xem xét ở những bệnh nhân đáp ứng một phần, nhưng không được khuyến cáo cho các bệnh nhân hoàn toàn không đáp ứng.
13. Bệnh nhân được tái điều trị bằng boceprevir kết hợp với peginterferon alfa và ribavirin nếu vẫn phát hiện được HCV RNA > 100 IU/mL ở tuần 12 thì nên ngừng điều trị do khả năng phát triển siêu vi kháng
thuốc.

14. Bệnh nhân tái điều trị được điều trị với telaprevir kết hợp với peginterferon alfa và ribavirin nếu vẫn phát hiện được HCV RNA >1000 IU/mL ở tuần 4 hoặc 12 thì nên ngừng điều trị do khả năng đề kháng.

Đề kháng và theo dõi:

 15. Bệnh nhân thiếu máu khi điều trị viêm gan siêu vi C mạn tính bằng chất ức chế protease  cần được giảm liều ribavirin.
 16. Bệnh nhân điều trị viêm gan siêu vi C mạn tính bằng chất ức chế protease nên theo dõi chặt chẽ nồng độ HCV RNA và các chất ức chế protease nên được ngưng nếu nồng độ HCV RNA tăng trở lại.(tăng HCV RNA > 1 log so với ngưỡng thấp nhất trước đó).


17. Những bệnh nhân không đáp ứng hoàn toàn, những bệnh nhân bùng phát siêu vi , những bệnh nhân tái phát với một phác đồ điều trị trước đó có một chất ức chế protease đã được phê chuẩn thì không nên điều trị lại với một chất ức chế protease khác.

Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ : 0973332733




Tài liệu tham khảo

MG Ghany, DR Nelson, DB Strader, et al. An Update on Treatment of Genotype 1 Chronic Hepatitis C Virus Infection: 2011 Practice Guideline by the American Association for the Study of Liver Diseases. Hepatology 54(4):1433-144 October 2011.