Pages

Thứ Năm, 3 tháng 5, 2007

NHỮNG NGÀY KHÓ QUÊN - Thành kính gửi đến BS Phi Hùng

Bảy năm còn nhớ những ngày
Phi Hùng y đức trở xoay bệnh tình
Lâm sàng luận thuyết phân minh
Kết hợp điều trị nhiệt tình y lương
Hyppocrates dẫn đường
Tận tâm tòan lực tìm phương cứu người
Vài hàng kính bút thay lời
Cầu chúc Bác sĩ đạo đời thăng hoa
Kính thành chúc phúc tòan gia
Được nhiều sức khỏe trẻ già an khương
Nhận được điện thọai tỏ lường
Đội ơn Bác sĩ vẫn thương tình người
Phú Yên cách trở xa vời
Lâu rồi không dịp về nơi Sài thành
Xuân này rồi cũng qua nhanh
Cầu mong Bác sĩ ngọn ngành cảm thông
Nội khoa gặp được Phi Hùng
Bệnh viện Chợ Rẫy tiếng cùng bay xa
Khi nào công tác Tuy Hòa
Kính mời Bác sĩ ghé qua số nhà
Một trăm sáu mốt(161)không xa
Đường Trần Hưng Đạo phường ba mặt tiền
Gia đình mong được thiên duyên
Tiếp người y đức đòan viên tình nhà.
Kính bút
Tuy Hòa ngày 16-3-2007
NGUYỄN CHÍ HIẾU

Thứ Ba, 1 tháng 5, 2007

ĐIỀU TRI VIÊM GAN SIÊU VI B MẠN TÍNH VÀ SỰ KHÁNG THUỐC

Nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính là một vấn đề y tế lớn tòan cầu, ảnh hưởng đến hơn 400 triệu người trên thế giới, riêng ở vùng Châu Á-Thái Bình Dương chiếm tới 75% người bị nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính trên tòan thế giới, Việt nam nằm trong những vùng có tỉ lệ lưu hành cao > 8%. Viêm gan vi rút B mạn tính gây nên nhiều biến chứng trầm trọng, gồm suy gan, xơ gan và ung thư tế bào gan.
Ngay 27/4/2007 Công ty dược phẩm Roche phối hợp với Hội Gan Mật Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức một buổi trao đổi kinh nghiệm lâm sàng về điều trị bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính và sự kháng thuốc tại thành phố Đà lạt. Tại buổi trao đổi kinh nghiệm các chuyên gia về gan học đã dề cập đến vấn đề khó khăn trong điều trị bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính đối với các thuốc nucleoside analogues là phải dùng kéo dài vô thời hạn nên thường đi kèm với nguy cơ kháng thuốc và tính an tòan chưa xác định hết. Sự đề kháng với thuốc kháng vi rút phụ thuộc ít nhất vào 4 yếu tố:
1. Tần số xuất hiện đột biến, số lượng đột biến, và tốc độ nhân đôi của vi rút.
2. Chọn lọc tự nhiên dưới áp lực của thuốc sử dụng.
3. Sự nhân lên của đột biến.
4. Khả năng của sự nhân đôi.
Hiện nay các thuốc như lamivudine, adefovir, entecavir, interferon alpha, và peginterferon alpha 2a được chấp nhận điều trị cho những bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính.
Sự lựa chọn điều trị cho bệnh nhân thì có thể khởi đầu với bất kỳ lọai nào trong những lọai thuốc đã nêu.Sử dụng nucleoside analogues thì đơn giản , ít tác dụng phụ, chi phí cho từng tháng thì ít hơn, nhưng sử dụng kéo dài thì nguy cơ kháng thuốc càng cao, lúc này phải thêm một thuốc mới, ít kháng chéo, thời gian sử dụng thuốc không được biết khi nào thì kết thúc, điều này tùy thuôc vào từng cá thể bệnh nhân.Sử dụng các chất diều hòa miễn dịch thì thới gian điều trị có hạn, ít xảy ra trường hợp kháng thuốc, nhưng phải chích, nhiều tác dụng phụ và chi phí nhiều trong một thời gian ngắn. Cho nên lựa chọn điều trị cho bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Bác sĩ chỉ là người cung cấp thông tin và gợi ý sự lựa chọn tốt nhất cho từng cá thể bệnh nhân, còn quyết định sử dụng thuốc nào thì do bệnh nhân tự quyết định.
Vấn đề kháng thuốc vẫn là vấn đề nan giải trong điều trị bệnh nhân viêm gan siêu vi b mạn tính. Đột biến kháng thuốc là một hiện tượng đương nhiên, chúng ta chỉ cố gắng làm sao để nó xảy ra ít và xảy ra muộn mà thôi.Và nên chăng cần có sự phối hợp các chất điều hòa miễn dịch và các chất nucleoside analogues trong điều trị bệnh Viêm gan siêu vi B mạn tính để đạt được tỉ lệ thành công cao hơn và giảm tỉ lệ đột biến kháng thuốc, điều này cần có nhiều nghiên cứu so sánh trực tiếp hơn nữa trong tương lai để có bằng chứng rõ ràng về vấn đề phối hợp thuốc này.
TpHCM ngay 01/05/2007
BS Nguyễn Phi Hùng

Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ : 0973332733